Ngày nay qua những khai quật của lịch sử trong núi kho tàng dữ liệu
từ Pháp, Mỹ tới khối dệ tam cộng sản quốc tế và VNCH, cho thấy những
chiến thắng của Lê Duẩn, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng.. tại miền
Nam trong suốt 20 năm đối mặt với QLVNCH, thật ra cũng không có gì
là vĩ đại như đảng tuyên truyền. Những trận Ấp Bắc, Ðầm Dơi, Hiệp
Hoà, Suối Ðá,An Lão, Bình Giã.. cho tới cuộc đại chiến hồi Tết Mậu
Thân (1968), những trận đánh long trời trên đất Cao Miên, Hạ Lào,
rồi Vũng Rô, Ba Gia, Phụng Dư, Ðồng Xoài, Ðức Cơ, Bố Ðức,Cồn Tiên,
Làng Vây, Cô Tô, Trí Pháp.. và mùa hè đỏ lửa 1972 cho đến hồi gần
kết cuộc tại Dục Mỹ, Phan Rang, PhanThiết, Xuân Lộc, Biên Hòa, Phước
Tuy, Long An, Sài Gòn.. Mọi nơi, khắp chốn, từ trong núi cho tới thị
thành, lúc nào VC cũng lơi dụng thời gian hưu chiến để đánh lén, hồi
nào cũng biển người, khi nào cũng có hỏa lực hùng hậu đưọc viện trợ
hay mua chịu trả sau từ Nga, Tàu, Ðông Âu, Ðông Ðức.. nhưng đâu có
lần nào thây không phơi xác đầy bãi, đánh nhanh, rút vội quay về
rừng, bỏ lại xác đồng chí đồng đội cho QLVNCH chôn cất ?!
Và khi chiến thắng gần kề thì thảm kịch VN chính thức thành hình
ngày 27-1-1973, qua cái gọi là ‘ hiệp định chấm dứt chiến tranh ‘
sau 4 năm 9 tháng, Mỹ và khối CS quốc tế cò kè bán mua cái thân xác
nhưọc tiểu VNCH. Rốt cục Mỹ rút bỏ VN bắt đầu từ thập niên 70 qua
chương trình VN hoá chiến tranh. Nhưng điều làm cho cả thế giới ngạc
nhiên và các chóp bu Hà Nôi hoảng sợ là không có Mỹ chiến đấu bên
cạnh, Nam VN chẳng những không ‘ sụp đổ như Kissinger tiên đoán ‘,
trái lại những năm 1970-1973, QLVNCH qua những Sĩ quan trung cấp
phục vụ trong mọi quân binh chủng từ Nhảy Dù, TQLC, LLÐB,BÐQ, Thiết
Kỵ, cho tới các Sư đoàn bộ binh 1,2,3,5,7,9, 18,21,22,23, 25 kể cả
các đơn vị Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát Dã Chiến, Bình Ðịnh
Xây Dựng Nông Thôn.. luôn cả Nhân Dân Tự Vệ.. đưọc các nhà quân sử
xếp loại Lính thiện chiến nhất thế giới.
Thật vậy, có là lính chiến đấu ngoài mặt trận, mới cảm nhận được
lòng hy sinh vô bờ bến cùng với sự can đãm phi thường của QLVNCH
trong các mặt trận long trời lở đất tại An Lộc, Kon Tum, Quãng Trị,
Bình Ðịnh, Thưọng Ðức, Sa Huỳnh, Tống Lê Chân, Xuân Lộc và những
ngày hấp hối tại Phan Thiết,Tây Ninh, Củ Chi, Long An, Biên Hoà, Sài
Gòn.. Sự chiến đấu dũng mảnh của những người lính lãnh một năm
lương, không bằng một trận cười, tiệc vui hay đêm dạ vũ của các me
tây, vợ Mỷ, gái điếm... Trong đỉnh cao thời thương này, đã có không
ít người vừa sống ký sinh gửi mạng cho lính bảo vệ, lại vừa ăn cơm
ta, mang lon quân đội, sử dụng công xa chính phủ nhưng thờ ma Hồ hay
như thị Bình khoe là theo VC từ lúc còn ở trong đền thờ ông ngoại là
Phan chu Trinh tại Ða Kao, Sài Gòn.
Hiệp định Paris 1973 là vết dao trí mạng của Kissinger đâm đúng hồng
tim của VNCH, khi Mỹ và CS quốc tế hiệp đồng, hợp thức hoá sự có mặt
của bộ đội Bắc Việt trên lãnh thổ miền Nam, cắt và ngưng viện trợ
cho QLVNCH như đã từng ký hứa để tháo chạy trong danh dự trên nóc
nhà trong đêm tối qua sự bảo vệ của QLVNCH còn đang chiến đấu dưới
đất. Tóm lại người Mỹ chỉ vì theo đuổi chính sách tự trói, một giải
pháp chính trị cho Ðông Dương nên đã tự tháo chạy và đóng kịch sa
lầy.. Ngay cả trên bàn cờ chính trị CS đã thắng gì, dù có gây đưọc
vài ba phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, nhưng đây là sản phẩm của
bọn đạo tặc truyền thông da trắng, chứ không phải công của VC. Sau
này mới biết được, người Mỹ đã dự liệu trước sự vi phạm trắng trợn
hiệp định 1973 và bản tuyên cáo của La Cell St. Cloud vào tháng
6/1973 của Bắc Việt, nên đã căn cứ vào ‘ giấy trắng mực đen ‘ để có
lý do và công pháp quốc tế, từ chối viện trợ tái thiết cả chục tỷ đô
la, đồng thời được quyền pháp định theo Liên Hiệp Quốc, phong tỏa
kinh tế và cấm vận VC dài hạn cho tới đầu năm 1990 mới hủy bỏ.
Nên cuộc chiến Ðông Dường lần thứ ba 1955-1975, dù cho có gọi bằng
thứ danh từ gì chăng nửa như chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh giải
phóng dân tộc, nội chiến Nam-Bắc.. thì tựu trung cũng là Bắc Việt
xâm lăng VNCH. Cái đa dạng và phức tạp từ trong định nghĩa ra tới
thực chất, đều thoát thai qua lớp hỏa mù tuyên truyền và đống núi
tài liệu tả bánh lù , đối chọi tréo cẳng ngổng làm cho lớp trẻ trong
và ngoài nước, cũng như những kẻ bàng quang hôm trước, hôm qua cho
tới bây giờ, vẫn không biết đâu mà mò. Ðây cũng là cơ hội để những
người có trách nhiệm, hoặc vô tình hay cố ý, ở ngoài hay thực sự có
mặt trong cuộc chiến, đổ hết tội lỗi vào Chính Phủ VNCH, bằng tội
danh Tham Nhũng, Bất Tài, Bè Phái, Ðộc Tài, Quân Phiệt.. Trong lúc
đó, thật sự những người này cũng có mắt tại hiện trường và cũng có
trách nhiệm nhưng đã không làm gì hết.
Rồi ba mươi bốn năm sau, chính những người này hay lớp trẻ, lớp mới,
gần như không làm được gì để giúp giải quyết tình trạng thảm thê của
đồng bào đang sống trong địa ngục đó. Buồn hơn họ lại quay vào chửi
bới moi móc VNCH, chà đạp ‘ Lá Cờ Vàng ba Sọc Ðỏ của Quốc Dân VN ‘
tới độ vẽ trong bồn rữa chân.. Thì ra suốt mấy chục năm qua, CSVN
tìm đủ trăm phương ngàn kế, tận dụng hết tất cả thủ đoạn, xô lệnh
sơn hà, gây cảnh máu sông, xương núi, để làm chủ cho đưọc VN. Cuối
cùng đem hết giang sơn cẩm tú và sinh mệnh của dân tộc Việt bán
nhượng cho giặc Tàu phương Bắc, là kẻ thù truyền tiếp của giòng
giống Lạc Hồng.
Ðất nước xơ xác tiêu điều vì tập đoàn lảnh đạo đảng tham nhũng từ
trên xuống dưới. Dân chúng từ nông thôn tới thành thị đói khổ lâm
than bởi nạn cướp bóc của công an cán bộ và thiên tai bảo lụt nhưng
trên hết là nạn hải tặc Trung Cộng đang hoành hành tác quái cướp của
giết hại ngư dân khắp biển Ðông. Tất cả im re lặng ngắt, coi đó là
chuyện nhỏ .. Tất cả những bí mật vừa kể trên, là một trong nhiều
nguyên nhân đưa tới sự sụp đổ của VNCH chỉ trong 55 ngày đêm tháo
chạy, dẫn tới sự mất nước vào tay Tàu đỏ ngày nay.
+ Tất cả đều là đảng ta đó :
Trong cuốn ‘ Ðại thắng mùa xuân ‘ , Văn tiến Dũng đã nói một cách
huỵt toẹt là nhiều người có liên quan tới cuộc chiến VN, vào những
giờ phút cuối cùng từ Tổng thống Pháp Giscard d’Estaing, Ðại sứ Pháp
tại VNCH Mérillon, Ðại sứ Mỹ Martin, cho tới TT Dương văn Minh cùng
với nhóm thân cộng Chân Tín, Lý quý Chung, Dương văn Ba, Châu tâm
Luân.. đều bị cọng sản gạt một cách cay cú về chuyện hòa đàm. Nhưng
chính sự lưu manh xão trá này, đã khiến cho cọng sản Hà Nội sau ngày
30-4-1975, phải trả một giá đích đáng, là không còn ai tin nữa. Câu
tục ngữ dân gian ‘ nói láo như vẹm ‘ đã phát xuất từ đó.
Trong lúc TT Dương văn Minh và nội các của ông đặt hết tin tưởng vào
thiện chí ‘ hòa bình ‘ của Bắc Việt, thì theo lời Trần văn Trà viết
trong KTNN số 34 năm 1990, lúc 24 giờ ngày 29-4-1975, đưọc Lê Duẩn
chọn làm giờ G cho 5 quân đoàn Bắc Việt, từ 5 hướng tổng tấn công
vào Sài Gòn. Ðây cũng là thời gian để cán bộ nằm vùng lộ mặt, xách
động dân chúng nổi dậy diệt chính quyền. Lúc này Mỹ cũng đã kết thúc
cuộc di tản theo kế hoạch Frequent Wind và mờ sáng ngày 30-4-1975,
đại sứ cũng bay tới soái hạm Blue Ridge của hạm đội 7, sau đó là
toán TQLC, kết thúc sự hiện diện của người Mỹ tại VN từ 1954
Từ sau hiệp định ngưng bắn Ba Lê đưọc thi hành năm 1973, Trần văn
Danh chỉ huy trưởng quân báo Bắc Việt, kiêm phó tham mưu trưởng Miền
coi về tình báo chiến lược, đặc công và biệt động, được cài trong
phái đoàn bốn bên, công khai ngồi chình ình nơi phòng có gắn máy
lạnh tại trại David, Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Nhờ đặc quyền, đặc sũng
này mà Danh đã thu nhập đưọc gần như tất cả bí mật trong ngoài của
VNCH.
Danh được lệnh vào Nam qua ngã đường mòn HCM, từ tháng 12/1960 ngay
khi MTGPMN được Hà Nội thành lập, hợp tác vói Mười Cúc Nguyễn văn
Linh đang nằm vùng tại đây. Rồi Ban quân sự Miền của Bắc Việt đưọc
thành lập do Trần văn Quang chỉ huy, Danh phụ trách tình báo, đặc
công. Theo Danh thú nhận, thời gian từ 1955-1963 hầu hết các cơ sở
nằm vùng của cọng sản tại miền Nam gần như bị tiêu diệt và thất bại
nặng nề. Số lớn còn sống hoặc ra chiêu hồi hay bị bắt cầm tù. Nhân
dịp này, miền Bắc đã đem cán bộ cộng gộc vào làm tình báo và bọn này
đã nằm vùng khắp các cơ quan đầu nảo từ Tòa đại sứ Mỹ cho tới dinh
độc lập, bộ, nha, sở.. tới các tỉnh, thị như trường hợp Ðinh Văn Ðệ
tại Bình Thận.
Theo Danh, trước khi tổng tấn công miền Nam năm 1975, Lê Duẩn chơi
trước ván cờ thấu cáy bằng cách đánh Phước Long và các vùng lân cận
do Danh (Ba Trần), Năm Thạch (Hoàng Cầm) và Năm Ngà (Nguyễn minh
Châu) chỉ huy. Chiến dịch Phước Long để Hà Nội chắc chắn là Mỹ đã
thật sự phủi tay, không can thiệp vào miền Nam, vì vậy Trung ương
đảng mới quyết định công khai xé bỏ hiệp ưóc, đánh chiếm VNCH.
Giữa lúc trong dinh độc lập mê mãi chuyện thay ngựa, đổi vua để đưọc
VC chấm cho hòa hợp, hòa giải trong chính quyền liên hiệp cuội, thì
Danh cho biết ngay ngày 24-4-1975, quân ủy miền Bắc đã ra lệnh chiếm
Sài Gòn do Văn tiến Dũng, Phạm Hùng chỉ huy đầu nảo cùng với Trần
văn Trà, Lê trọng Tấn, Lê Ðức Anh, Ðinh Ðức Thiện coi các lộ quân.
Danh lo tình báo, Mười Cúc phụ trách sư đòan 304 nằm vùng và Võ văn
Kiệt chuẩn bị ngựa xe, trà nước và người phe ta, chầu đón giặc bắc
vào thành. Danh đưọc Phạm Hùng phong tướng ngay đêm miền nam sụp đổ.
+ Từ đường mòn HCM tới địa đạo Củ Chi : Những huyền thoại đã cháy
sau tháng 5/1975 :
Ðọc trường thiên ký sự ‘ Ðưòng đi không tới ‘ của Xuân Vũ và những
năm gót lính lội rừng, mới thấm thía đưọc sự tàn khốc của chiến
tranh. Trường Sơn trong suốt cuộc chiến là mồ chôn hằng vạn tử sỉ
của cả hai phía. Những địa danh như đồi không tên, dốc pháo cụt,
sông A Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh, Dakto, A Shau,Ia-Drang, Pleime,
Ðức Cơ.. ra tới tận miền bắc, càng lúc trở nên khốc liệt khi chính
thức là con đường chiến lược tải người và quân dụng vào xâm lăng
miền Nam.
Tháng 11-1997, Võ nguyên Giáp nhắc lại đường Trường Sơn 559 do Ðinh
đức Thiện và Ðồng sĩ Nguyên chỉ huy, nối Bắc bộ phủ đến tận các
chiến trường Nam ruột thịt, có kèm theo ống dẫn xăng dầu, dùng cho
cơ giới và đoàn vận tải xuyên sơn. Theo Nguyên, bắt đầu chỉ huy binh
đoàn 559 từ tháng 12-1966 với 750 xe vận tải, bốn binh trạm có nhiệm
vụ chuyển tải người, quân dụng vào Nam. Một phần đường mòn chạy trên
đất Lào và Kampuchia mà Hà Nội bảo là họ cho phép.
Ðưòng chính thức ra đời vào ngày 19-5-1959 do công lao phác họa của
Võ Bẩm, trải qua ba giai đoạn đường bộ, gùi thồ và xa lộ đất từ năm
1964 bằng xe cộ. Từ năm 1971,đường đưọc mở rộng đồng thời với tuyến
biển 759 nhưng hoạt động kém hiệu quả vì lực lưọng Hải quân/QLVNCH
quá hùng hậu. Binh đoàn 559 có quân số trên 120.000 người, gồm
10.000 thanh niên xung phong, 1 sư đoàn cao xạ phòng không tăng phái
và tám sư đoàn chiến đấu vận tải.
Sau ngày ký hiệp định 1973, Hà Nội bỏ binh trạm và đưa quân thẳng
vào Nam một cách công khai mỗi lần từ sư đoàn lên tới quân đoàn, kể
cả cơ giới, pháo, tăng chỉ mất 12 ngày, thay vì 4 tháng như trước.
Hai sư doàn quân xa dọc ngang xuôi ngược hết đông qua tây Trường Sơn
, trước sự bất lực của VNCH vì không có hỏa lực để bắn hạ, còn Mỹ
thì phủi tay khi ôm hết tù binh và cốt lính về nước. Tóm lại trong
suốt cuộc chiến, Trường Sơn là bãi chiến trường đẳm máu nhất từ năm
1965 trở về sau. Nhưng hy sinh máu xương để được gì cho đất nước ?
hay chỉ là sự tưởng tiếc của những kẻ mắn may sống sót, những cô gái
Trường Sơn mõi ngóng các chàng lính của cả hai bên, cho tới ngày
tuổi xuân tháp cánh mà bóng ai vẫn biền biệt theo cái huyền thoại
Trường Sơn đã chết héo trong tâm khảm của đồng bào sơn cước bị cướp
bốc, khinh rẻ từ lúc có hòa bình.
Mấy lúc gần đây thấy đảng quảng cáo rầm rộ về cái địa đạo Củ Chi dài
tới 250 km, mà bẽ bàng, dù sao cũng đã ăn ngủ với Củ Chi hơn năm,
khi Trung đòn 43 biệt lập tăng phái hành quân cho tỉnh Hậu Nghĩa, mà
tiểu đoàn 1/43 lại đóng thường xuyên ở thành đồng vách cát, gần như
không sót một chổ nào.
Trước tháng 4/1975, quận Củ Chi mười lăm xã Phú Mỹ Hưng, An Phú, An
Nhơn Tây, Nhuận Ðức, TRung Lập, Phú Hòa Ðông, Tân Thạnh Ðông, Trung
An, Phước Vĩnh Ninh, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Tân Phú Trung
và Tân Thông Hội, lính 43 không bỏ sót một chốn nào, nhưng đâu thấy
địa đạo.
Củ Chi nằm sát nách Sài Gòn, trên lãnh thổ có rất nhiều đường giao
thông ngang dọc như quốc lộ 1, tỉnh lộ 15 chạy cặp sông Sài Gòn,
tỉnh lộ 7A và 8A nối liền Bầu Trai, tỉnh lỵ Hậu Nghiã, qua Củ Chi,
thông với Thủ Dầu Một. Suót cuộc chiến, Củ Chi là giao điểm của tất
cả hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ nhắm vào từ Sư doàn 25 HK, tới SD5,25
VNCH.. vậy làm sao mà Củ Chi có thể trở thành địa đạo dài tới 250 km
?
Ðịa đạo Củ Chi như lời giải thích của các bô lảo trong vùng, được
thành hình vào thời gian khi chính phủ VNCH tiếp thu từ năm 1955, do
các cựu kháng chiến Việt Minh, không đi tập kết mà cũng chẳng về tề
đào để phòng thân, cho nên xã nào cũng có. Sau đó tình hình khả
quan, số lớn ra hợp tác với chính quyền hoặc trở thành người dân
thường nên hầm thành hoang phế.
Từ năm 1959 về sau Hà Nội lại gây chiến, lập mặt trận GPMN đóng đô
trong địa bàn quanh quẩn Tây Ninh, Hậu Nghĩa sát Củ Chi. Thế là du
kích tìm các hầm hố, địa đạo cũ moi dất để làm chổ trốn khi bị săn
đuổi. Vì Củ Chi mưa nhiều, đất sốt, nên hầm hố sau một mùa mưa rừng
là xập nếu không tu bổ, trong hầm là hang ổ của các loại rắn, bò
cạp, rít, chuột.. nên không mấy ai thích vào, trừ phi giây phút tử
thần réo gọi. Số du kích, cán bộ bị rắn rít, bò cạp hạ sát, cũng
không thua số thưong vong bom đạn là mấy. Ðó là mặt thật của địa đạo
250 km trong tưởng tượng.
Ðịa đạo Củ Chi qua cuộc chiến thường được nhắc tới bằng các tên làng
xóm quanh vùng như Hố Bò, Bến Ðình, Bến Dưọc.. một vùng đồn điền cao
su, giữa các mật khu nổi tiếng như Bời Lời, Trảng Bàng, Dương minh
Châu, Tam giác Sắt. Mật khu Hố Bò, Củ Chi được Hà Nội gọi là Phân
khu Sài Gòn-Chợ Lớn giao cho Mười Cúc và Võ văn Kiệt cai quản, có
Trung đoàn 1012 (Thủ đô) và 2 Tiểu đoàn Quyết Thắng 1,2 nhưng gần
như chết hết qua nhiều lần đụng độ triền miên với Hoa Kỳ và
SD25/VNCH. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, quân số các đơn vị trên được bổ
sung từ miền Bắc vào.
Củ Chi tê liệt từ khi SD 25 Mỹ vào đóng tại Ðồng Dù, sau đó là SD
101 Không Vận Hoa Kỳ, thường dùng chiến dịch trực thăng bay vào tận
ổ, nên sau này cán gộc cở Cúc, Kiệt thường ở dưới hầm cho chắc mạng.
Ngoài ra ta còn mở CHIẾN DỊCH ROM-PLOW ỦI XẬP ÐỊA ÐẠO CỦ CHI, sử
dụng 12 chiếc xe ủi đất loại lớn, đưọc tướng Wayan, có vấn trưởng
của Ðại Tướng Ðổ cao Trí tư lệnh QÐ3 lúc đó, biệt phái cho TK/Hậu
Nghĩa.
Chiến dịch ủi quang khu Hố Bò, Củ Chi làm Hà Nội điên tiết . Ðể bảo
đảm doàn xe cơ giới trong lúc khai quang, một thiết đoàn gồm M48 và
M113 của Hoa Kỳ yểm trợ, bảo vệ an ninh, xe ủi đưọc bọc bằng lưới
chông B40 và bao cát, nên đã hoàn thành nhanh chóng công tác sau 15
ngày làm việc, địa đạo Củ Chi đã biến thành một vùng đất rộng thoáng
quang, hầm xập người cũng biến mất. Hết Hố Bò tới Bời Lời, sau đó là
đường Trảng Mít, Dầu Tiếng cuối cùng tới các căn cứ lõm của du kích
ấp xã trong các quận Củ Chi, Trảng Bàng, Ðức Hòa, Ðức Huệ.. Tình
hình an ninh đưọc vãn hồi, huyền thoại địa đạo Củ Chi chỉ còn trong
các sách giáo khoa và tài liệu tuyên truyền của đảng mà thôi.
Tóm lại địa đạo Củ Chi, Hố Bò, Bời Lòi đã bị đoàn cơ giới HoaKỳ hủy
diệt năm 1970 như bình địa. Hầu hết cán bộ cán binh vưọt trốn qua
đất Miên. Vậy mà vẫn có người tin, điều này làm cho thế giới phải nể
sợ sự nói láo không ngọng của người CSVN khi mà mọi bí mật của lịch
sử và chân tướng của đảng đã bị bật mí và lộ diện.
Như Lê Ðức Thọ đã tuyên bố ngày 1-5-1975 ‘ cái gì là Mặt Trận GPMN,
tất cả đều là đảng ta đó ‘.Nên việc CSVN rục rịch chống Tàu nói là
để bảo vệ ngư dân và chủ quyền QG hay gì gì đó, thì cuối cùng cũng ‘
là phe ta cả ‘ nên làm sao mà đánh cho được ?Cuối năm nhìn lại đống
rác lịch sử cận đại do CSVN dàn dựng vẽ với, trong đó có chuyện dài
' đánh Mỹ cứu nước XHCN ' mà thêm đau lòng thương cảm cho thanh niên
nam nữ đất Bắc, đã hy sinh oan uổng làm tôi mọi cho bọn chóp bu Hà
Nội. Rốt cục vẫn sống kiếp nô lệ tồi tàn còn thua thời Pháp thuộc.
Sao bằng Nam VN đã đánh một trận để đời. Nay dù có tan hàng rã ngủ
vẫn ngẩn cao mặt với thế giới vì đã hoàn thành bổn phận cứu nước
giúp dân, danh thơm muôn thuở.
Cám ơn các Anh : Người Lính VNCH !
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mường Giang .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét