Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

NGỘ NHẬN ĐẾN BAO GIỜ?



  1. Trong sinh hoạt đời thường của các hội hè đình đám hay trong quan hôn tang tế, trong các nghi lễ tôn giáo thuộc quyền chi phối của nhà nước, chúng ta thường nghe những câu đại loại như nhờ ơn bác, đảng... cám ơn chính... quyền các cấp đã quan tâm, tạo điều cho chúng tôi... Và trên các phương tiện truyền thông, trong hệ thống giáo dục của đảng, nhà nước chúng ta thường nghe đề cao sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình đánh thắng các đế quốc, thực dân cũ, mới Pháp, Nhật, Mỹ lừng danh thế giới, một đất nước nhiều anh hùng, ra ngõ là gặp anh hùng kiểu như Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Chị ba Dũng Sĩ quê ở Trà Vinh...


    Thế những gì đảng chỉ đạo tuyên truyền trong hệ thống tổ chức của đảng và các sách giáo khoa giảng dạy trong các trường phổ thông các cấp lên tận đại học hậu đại học, họ luôn kể về công lao của ông Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh đánh đuổi thực dân, đế quốc giành độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho nước Việt Nam, là đúng với sự thật lịch sử hay đảng đã ngụy tạo, tiếm danh sửa đổi lịch sử để cướp công lẫn lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam?


    Để biết được sự thật chúng ta cần lật lại những trang sử cũ bên ngoài những quyển sách, tài liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền giáo dục của đảng cộng sản. Đọc lại sử sách cũ chúng ta sẽ bắt gặp nhiều cá nhân, tổ chức tự phát do lòng yêu nước đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp có mặt từ rất lâu, trước khi đảng cộng sản ra đời, không do sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Những vị anh hùng dân tộc có thật đã truyền lửa đấu tranh đến toàn thể dân tộc Việt Nam của những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 gồm có:


    Miền Nam có những tên tuổi tiêu biểu như ông Trương Công Định thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với câu nói để đời: “Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi thiếu võ khí tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta...” và ông Nguyễn Trung Trực, người lãnh đạo đốt tàu giặc ở vàm Nhật Tảo, chiếm thành Rạch Giá bị giặc bắt vẫn tỏ khí phách “uy vũ bất năng khuất” ông bước lên đoạn đầu đài với yêu cầu giặc Pháp mở trói, không bịt mắt và ông hiên ngang bước ra giữa pháp trường, nhìn trời đất bao la, vẫy tay chào đồng bào để đi vào lòng đất mẹ lúc tuổi đời còn rất trẻ.


    Miền trung có những lãnh tụ kháng chiến chống pháp như Đinh Công Tráng với Chiến Lũy Ba Đình và ông Phan Đình Phùng với câu nói lưu danh sử sách khi giặc bắt thân nhân của ông làm áp lực dụ hàng, ông đã khẳng khái thể hiện tinh thần yêu nước cao độ: “Tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, có một ngôi mồ rất lớn là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về hàng, để sửa sang phần mộ của cha ông mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ?”


    Miền Bắc có ông Nguyễn Thiện Thuật lập căn cứ kháng chiến chống Pháp nơi vùng sình lầy nên được gọi là Chiến Khu Bãi Sậy vang danh lịch sử và ông Hoàng Hoa Thám đã dùng chiến thuật du kích chiến kéo dài nhiều chục năm, gây tổn thất nặng nề, làm cho giặc Pháp mất ăn mất ngủ nên được nhân dân ưu ái đặt cho biệt danh là Hùm Thiêng Yên Thế.


    Đặc biệt, tất cả các lãnh đạo các tổ chức đấu tranh vừa kể, đa số xuất thân từ chốn quan trường nhận bổng lộc vua ban và hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương của vua chúa triều đình nhà Nguyễn. Thế nhưng khi triều đình nhu nhược ký kết nhượng đất cho quân xâm lược, ra lệnh cho các ông ngưng chiến nhưng các anh hùng dân tộc trong kháng chiến đánh Pháp bất chấp lệnh vua ban, quyết chiến đấu đến cùng. Có lẽ, mọi người đều biết trong thời quân chủ vua là con trời, trái ý vua sẽ phải tội tru di tam tộc đến cửu tộc nhưng họ bất chấp hậu quả, xem thường hành động nhu nhược bán nước của giai cấp cầm quyền, tiếp tục chiến đấu cho nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.


    Tiếp nối tinh thần bất khuất đấu tranh chống ngoại xâm của tiền nhân của những năm cuối thế kỷ 19, thập niên đầu của thế kỷ 20 lại có thêm phong trào Duy Tân với mục tiêu “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” do ông Phan Chu Trinh khởi xướng (1904-1908), cùng với Duy Tân là phong trào Đông Du do ông Phan Bội Châu phát động đưa thanh niên ra nước ngoài huấn luyện, học tập làm nòng cốt cho kháng chiến (1904- 1908), kế tiếp là Đông Kinh Nghĩa Thục do nhóm ông Lương Văn Can chủ xướng qua hình thức giáo dục nhưng thực chất là vận động toàn dân tham gia kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp (1907).


    Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ hai mươi nhiều tư tưởng tiến bộ lẫn biến động thế giới ảnh hưởng đến tinh thần đấu tranh của cách mạng Việt Nam: một là cuộc cách mạng Tam Dân (dân sinh dân chủ dân quyền) năm Tân hợi năm 1911 do Tôn Dật Tiên lãnh đạo ở Trung Hoa; hai là chiến tranh thế giới (1914-1918); ba là cuộc cách mạng lật đổ Nga hoàng tháng mười năm 1917 do Lenin lãnh đạo. Có thể nói biến động của thế giới trong giai đoạn này ảnh hưởng không ít đến tư tưởng lẫn phương thức tổ chức đấu tranh của những người Việt Nam yêu nước.


    Thế cho nên, từ đó các đoàn thể, hiệp hội, đảng phái lần lượt ra đời đáp ứng tình hình đấu tranh, mô thức đấu tranh mới, trong đó đảng cộng sản chỉ là một trong nhiều tổ chức, đảng phái chính trị, lực lượng yêu nước tham gia đánh đuổi thực dân pháp giành độc lập chủ quyền cho dân tộc Việt Nam.


    Đọc lịch sử có thể nhận ra tất cả phong trào kháng chiến chống ngoại xâm theo truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ khi giặc Pháp có dã tâm chiếm đóng nước ta và đảng cộng sản che giấu tung tích, núp bóng dân tộc góp mặt đấu tranh bên cạnh các đảng phái cách mạng khác như:


    Miền Bắc có: Việt Nam Quốc Dân Đảng; Đại Việt Quốc Xã; Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội; Đại Việt Duy Dân; Đại Việt Quốc Gia Liên Minh; Đại Việt Dân Chính; Đại Việt Quốc Dân Đảng; Mặt Trận Việt Minh; Đông Dương Cộng Sản Đảng...


    Miền Nam có: Đảng Cộng Hòa Xã Hội (Cao Đài); Đảng Dân Xã (Hòa Hảo); Đảng Xã Hội Việt Nam; Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng; Tân Việt Quốc; Việt Đoàn Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội; Thanh niên Tiền Phong, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp; Phong Trào Bình Dân Nam Kỳ...


    Tất cả các lực lượng yêu nước đó liên tục đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc cho đến lúc ông Hồ Chí Minh chớp thời cơ, cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim đã được chính phủ Nhật Bản trao trả lại chính quyền sau khi thua trận trong thế chiến lần hai (1939-1945) và chuyện ông Hồ đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9/1945 ở Hà Nội, ông ta cũng chỉ là đại diện cho chính phủ liên hiệp gồm các tổ chức, đảng phái, lực lượng dân tộc yêu nước chứ không chỉ có riêng đảng cộng sản như họ tuyên truyền, bởi ngay sau đó không lâu, ngày 11/11/1945 ông Hồ Chí Minh đã phải tuyên bố giải tán Đông Dương Cộng Sản và núp dưới danh nghĩa Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác để tranh thủ toàn dân ủng hộ chính phủ liên hiệp do ông Hồ Chí Minh làm đại diện.


    Từ đây, ông Hồ Chí Minh bắt đầu giở thủ đọan, gian manh chính trị theo mô hình tổ chức khủng bố, bạo lực cách mạng của Lenin, Stalin, Mao và làm theo chỉ thị từ cộng sản quốc tế. Ngoài mặt ông Hồ khoát áo dân tộc che giấu tung tích tay sai cộng sản quốc tế kêu gọi các tổ chức đảng phái đấu tranh, hòa hợp hòa giải thành lập chính phủ liên hiệp nhưng thực chất là chiêu dụ các đảng phái chính trị tham gia chính phủ liên hiệp, nằm dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản do ông ta lãnh đạo để thực hiện ý đồ đen tối của cộng sản quốc tế và những ai không theo thì ông ta ra lệnh ngầm cho tay chân thuộc hạ tiêu diệt không nương tay, kiểu như hàng sống chống chết.


    Đến khi thanh toán được các đối thủ chính trị, số bị thủ tiêu, số trốn chạy ra nước ngoài lánh nạn, ông Hồ Chí Minh lại sử dụng bộ máy tuyên truyền vận động lòng yêu nước vốn có trong truyền thống chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam vào cuộc toàn quốc kháng chiến 1945-1954. Trước khi chiến tranh kết thúc một năm tức vào năm 1953, cộng sản Việt Nam nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế phát động phong trào cải cách ruộng đất “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, tróc tận rễ” đấu tố xử tội, tịch thu đất đai, tài sản chia cho bần cố nông, chiến dịch kéo đài đến năm 1956.


    Tiếp theo cải cách ruộng đất là phong trào Nhân Văn Giai Phẩm do những trí thức văn nghệ sĩ đã góp một phần xương máu, cả thời tuổi trẻ cho kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp nhưng cộng sản lúc này núp dưới tên đảng lao động trở mặt không thực hiện tự do, dân chủ nên họ lên tiếng yêu cầu nhà nước thực thi tự do, dân chủ cho Việt Nam nhưng tất cả đều bị trấp áp dã man. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm được khởi xướng năm 1955 bị đàn áp thô bạo và bị dập tắt năm 1958.


    Bước sang năm 1959, các mầm mống chống đối cộng sản đã không còn là nguy cơ đe dọa chế độ nên cộng sản qua Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15 công khai chiêu bài chống Mỹ cứu nước thực hiện dã tâm thôn tính Miền Nam theo chỉ đạo của cộng sản quốc tế, ra quyết định: "Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực, cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ...”


    Từ quyết định đó cộng sản tuyên truyền trong dân chúng về tội ác Mỹ Ngụy, về thực dân kiểu mới tưởng tượng bằng những hư cấu mà thực dân mới áp đặt nền thống trị độc ác lên người dân miền Nam và chế độ tay sai Mỹ ác ghê lê máy chém khắp Miền Nam, rằng dân chúng bị áp bức bóc lột tàn tệ như nô lệ, đói khổ đến nỗi không có chén để ăn cơm, phải ăn bằng gáo dừa khô thay chén. Họ tuyên truyền ngày đêm “không có gì quý hơn...” kêu gọi nhân dân Miền Bắc thắt lưng buộc bụng, tất cả phải hy sinh cho giải phóng Miền Nam “đánh thắng giặc mỹ chúng ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. Bên cạnh tuyên truyền dối về Miền Nam khốn khổ, chúng bưng bít thông tin cấm nhân dân cán bộ, đảng viên nghe đài “địch” xuyên tạc, nói xấu chủ trương, chính sách, thành tựu của đảng, gây hoang mang chao đảo mất niềm tin của nhân dân đối với đảng!


    Rồi một ngày của năm 1975, ngày đoàn quân vào giải phóng thủ đô Sài Gòn, trong đoàn quân chiến thắng đã có người ngồi gục xuống bên vệ đường khóc nức nở, vì hiểu ra rằng mình đã bị đảng lừa, tiếp theo là những người tập kết ra Bắc lúc đất nước chia đôi năm 1954 trở về với vài món quà “quý” từ hậu phương lớn Miền Bắc đã phải lúng túng, vụng về đến xấu hổ khi nhìn thấy sự phát triển trù phú sung túc của một miền Nam bị Mỹ Ngụy kiềm kẹp nghèo nàn khốn khổ mà họ được học tập để quán triệt và nghe ra rả trên các loa đài của đảng?


    Thế rồi theo thời gian sự thật dần lộ ra, chiêu bài được gọi là chống mỹ cứu nước bị chính kẻ cầm đầu cuộc chiến ở Miền Nam là Lê Duẩn tuyên bố: “Ta đánh đây là đánh cho ông Liên Xô, ông Trung Quốc, đánh cho phe xã hội chủ nghĩa.” Bên cạnh đó, còn có nhiều câu nói của nhiều thế hệ lãnh đạo cộng sản phát ngôn tương tự như thế, kể cả hành động tay sai cho cộng sản quốc tế nhưng mở mồm ra là chửi bới những người không chấp nhận độc tài, độc ác cộng sản là tay sai, việt gian, phản động, bán nước!


    Đọc lại lịch sử hào hùng của thời kháng chiến chống thực dân Pháp của tiền nhân cho đến quan sát thực tiễn hiện nay cũng như nhìn lại nhiều thập kỷ “đời ta có đảng” không khó để chúng ta nhận ra rằng công lao kháng Pháp, chống Nhật, đánh Mỹ đúng thật nhất chỉ là cú lừa “vĩ đại” của cộng sản đối với dân tộc Việt nam và hậu quả của nó vẫn còn rất nghiêm trọng bởi còn nhiều người hiểu lệch lạc, biết chưa đúng lẫn ngộ nhận về cái được gọi là công lao của ông Hồ chí Minh, của đảng cộng sản trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.


    Tất cả đều là tuyên truyền dối trá với tài liệu, sách giáo khoa lịch sử bị vo tròn bóp méo, viết theo chỉ đạo, viết theo lập trường nhiều hư cấu bịa đặt, không đúng với sự thật lịch sử, chỉ nhằm phục vụ mục đích chính trị của đảng. Thế cho nên, không thể chê trách những thế hệ sanh sau đẻ muộn bị nhồi nhét những điều không thật của lịch sử nên hiểu lệch lạc, biết không đúng lẫn ngộ nhận về nhân vật Hồ Chí Minh, về cộng sản Việt nam.


    Có thể thấy, không chỉ có thế hệ trẻ sinh sau cuộc chiến hiểu lệch lạc, biết không đúng lẫn ngộ nhận mà còn có những người tham gia tổ chức cộng sản ngộ nhận về cộng sản. Có nhiều người phân vân tự hỏi:


    Tại Sao con người cộng sản thời chiến dũng cảm, trong sạch đạo đức, sống thanh cao đầy nghĩa khí?


    Xin trả lời rằng đó là do phẩm chất nền tảng đạo đức, nếp sống đùm bọc yêu thương theo truyền thống dân tộc chưa bị cộng sản phá nát, đào tận gốc tróc tận rễ và những người gia nhập cộng sản thời kháng chiến chống Pháp phát xuất từ truyền thống yêu nước chân chính của tiền nhân. Họ không hiểu cộng sản “tròn méo”như thế nào, chỉ nghe tuyên truyền loáng thoáng đảng là tổ quốc, tổ quốc là đảng, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, họ chỉ hiểu mơ mơ màng màng rằng thì là cộng sản sẽ đưa dân tộc mình lên thiên đường, ở đó không còn người bóc lột người, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, tập thể làm chủ, nông dân có ruộng cày, công nhân làm chủ nhà máy... Rồi cùng dắt tay nhau đi đến thế giới đại đồng, xóa bỏ biên giới quốc gia, không còn cảnh sát công an, không còn nhà tù giam người yêu nước...


    Đến hôm nay sự thật trần trụi về cộng sản đã phơi ra như những người kháng chiến năm xưa vẫn nghĩ mình là người cộng sản: cộng sản chân chính! Thật ra họ đã ngộ nhận, họ chỉ có cái vỏ cộng sản chứ không thể trở thành người cộng sản khi trong lòng họ vẫn còn phân biệt được đúng sai, phải trái, thiện ác biết bất bình phẫn nộ trước bất công theo nếp nghĩ chung của dân tộc và nhân loại. Lẽ khác, những người kháng chiến cũ, không đủ trí năng tưởng tượng ra bản chất cộng sản như nó đang là độc ác gian tham, tội lỗi ngất trời. Biết thế, chắc chắn họ đã không tiếp tay cho gian đảng cộng sản xây trại lính, trại tù trên đất nước Việt Nam. Tiếc thay đến bao giờ họ mới nhận ra mình đã ngộ nhận về cộng sản, về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, về công lao đánh đuổi...về không có gì... trong đống con chữ đã qua sử dụng được tái chế, phục vụ công tác tuyên truyền dối trá của cộng sản Việt Nam cho đến bao giờ... bao giờ?


    Le Nguyen
    danlambaovn.blogspot.com 

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

BỊ LỪA




Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 35 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.
Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.
Nhìn lại sau hơn nữa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :
_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?
Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
_ Tại sao đàn ông ?của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường , phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?
Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xả hội phi nhân tính . Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghỉa.
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận.Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnhtrong một cuộc chiến cho một sai lầmNếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.
Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản.

Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .
Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối , những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…
Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang , vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rủ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng.
Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xả hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vủ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muổi mòng giửa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.
Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.
Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lổi tầy trời của mình . Đảng sẻ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chấp vá một cách trơ trẻn.
Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”

Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?
Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy ?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chổ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai !
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.

Châu Hiển Lý – Bộ đội tập kết 1954
Theo phatgiaohoahaohaingoai

TÌM HIỂU BỘ MẶT THẬT CỦA HỒ CHÍ MINH



   

Hồ Chí Minh, một con người mà từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, hoàn toàn sống với sự giả dối. Ngày sinh của y, chẳng ai biết là có phải là ngày 19 tháng 5 năm 1890 hay không? Đến cái ngày chết đi của y, cũng chẳng ai biết là ngày 2 hay 3 của tháng 9 năm 1969 nữa?
Tên của Hồ, cũng thay đổi lung tung beng lên, như là da con tắc kè: Lúc thì là Nguyễn Tất Thành, khi thì lại là Nguyễn Ái Quốc, rồi cuối cùng, chối bỏ cái tên khai sinh “Nguyễn Sinh Cung” để lấy cái tên Hồ Chí Minh.
Họ Hồ chưa bao giở đi đến thẩm mỹ viện, nhưng lại có rất nhiểu bộ mặt khác nhau: Bộ mặt giả nhân giả nghĩa – Bộ mặt sát nhân giết người không gớm tay - Bộ mặt bợ đỡ quan thầy – Bộ mặt trơ trẽn đối với bạn bè (Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu). . .
Chúng ta, ai ai cũng biết Hồ Chí Minh là một tên tội phạm của dân tộc Việt, đã theo đưởng lối Cộng Sản Đệ Tam để nhuộm đỏ cả nước Việt Nam.
Ai ai cũng biết, nhưng chưa có ai đứng lên vạch mặt chỉ tên, đưa ra lời tố cáo Hồ Chí Minh là một tên Đại Gian, Đại Ác.
Để mãi đến năm 2009, mới có Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ đứng lên làm công việc này.
 Lính Mục Nguyễn Hữu Lể thụ phong Linh Mục vào năm 1970, được cử làm Phó Xứ Sa Đéc, nhà thờ Long Toàn. Sau đó, cha được đổi về làm Phó Xứ Nhà Thờ Chánh Tòa Vĩnh Long cho tới ngày 30 tháng Tư 1975.
Năm 1976, Khi Cha Lễ được đưa về làm Cha Xứ của nhà thờ La Mã ở Bến Tre, là lúc bọn Việt Cộng bắt đầu thi hành lệnh triệt hạ tôn giáo, bằng cách cắt đất, lấy nhà thờ: Chúng đòi Cha Lể phải dời nhà thờ qua một khu đất khác. Giáo dân phản đối lệnh dời nhà thờ, Cha Xứ Lễ, trong những bài giảng cho giáo dân, đã mạnh dạn tố cáo chính quyền Cộng Sản muốn đàn áp tôn giáo. Bọn Công An không lấy được nhà thờ, đã buộc tội Cha Lễ là “Chống phá chế độ” và ban lệnh bắt Cha. Giáo dân đoàn kết bảo vệ cha tới cùng, đưa cha trốn khỏi nhà thờ, đưa tuốt lên Ban Mê Thuột để cùng các Cha Xứ khác mưu chuyện đại sự. Việc không thành, Cha Lễ bị bọn Công An bắt và giam tại nhiều trại giam khác nhau ở Miền Nam, rồi đưa ra tới những vùng rừng núi hoang vu miền Bắc. Mãi tới năm 1988, Cha Lễ mới được trả trở về Sài Gòn.
Biết không thể đội trời chung với bọn Cộng Sản, Cha Lễ đã tìm cách vượt biên bằng đường bộ qua vùng Châu Đốc, tới hải cảng Kongpong Cham và từ đó dùng thuyền tới Thái Lan xin tỵ nạn chính trị. Tháng 1 năm 1989, Cha Lễ được đưa tới tạm trú ở Trại Tỵ Nạn Ban Tháp Nerong. Đến năm 1990, Cộng Đồng Công Giáo Tân Tây Lan đã mời Cha Lể tới Wellington để chăm sóc việc đạo cho giáo dân ở đây.
Nhận thấy Hồ Chí Minh chỉ là một tên tội phạm của dân tộc Việt, đã tiếp tay cho bọn Cộng Sản Quốc Tế mà áp đặt chế độ Cộng Sản lên đầu nguời dân Việt, giết hại biết bao nhiêu người dân lành, tạo ra cuộc chiến xâm lăng Miền Nam, tổn hại biết bao sinh linh. Đến khi Hồ chết đi rồi, đám lãnh đạo Cộng Sản đã cố tình đánh bóng tên này trở thành một thần tượng để dựa vào đó mà mê hoặc dân chúng, dùng thủ đoạn tàn ác mà đàn áp người dân lành, thâu tóm tiền của mà vinh thân phì gia, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ đã một lần nữa, mạnh dạn đứng lên vạch trần bộ mặt thật của Hồ Chí Minh cho không những riêng người dân Việt Nam, mà còn cho cả thế giới được thấy rõ bộ mặt tàn ác, tráo trở, vô tín ngường của tên Hồ Chí Minh và cái đảng được gọi là Cộng Sản của chúng.
 Cái tên Sài Gòn đã có tử thời lập quốc của Triều Nguyễn, Trải qua hai nền Cộng Hòa, Sài Gòn đã được coi như là tiêu biểu cho sự Tự Do, Phồn Thịnh của Miền Nam Việt Nam. Do đó, khi cưỡng chiếm được Miền Nam, bọn Việt Cộng đã vội vàng bỏ ngay tên Sài Gòn để thay vào đó cái tên Hồ Chí Minh.
 Muốn đánh đổ chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam, phải đánh ngay vào trọng điểm: Lấy lại cái tên Sài Gòn cho Sài Gòn. Có cái tên Sài Gòn, là coi như Miền Nam Việt Nam đã được tái khai sinh, Việt Nam Cộng Hòa sẽ được sống lại.
Muốn đánh vào trọng điểm, việc đầu tiên phải làm là: Lột bỏ những hoa mỹ, những gian trá mà tên Hồ Chí Minh đã tự tô điểm vào cho mình, lột trần những tội ác mà Hồ Chí Minh và bọn Cộng Sản Việt Nam cũng như Cộng Sản Quốc Tế đang dùng để lường gạt mọi người.
Đó là mục đích chính của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ.
 Để đạt được mục đích này, Linh Mục Lễ và Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn” đã làm hẳn một cuốn DVD, vừa có hình ảnh, vừa có tiếng nói của chính người dân Việt, của những sử gia nổi tiếng trên thế giới, đưa ra bộ mặt thật gian manh xảo trá, độc ác của tên Hồ Chí Minh.    
 NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA DVD “SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH”   
 1.    HỒ CHÍ MINH BỎ NƯỚC RA ĐI LÀ ĐỂ TÌM SỐNG MÀ THÔI.
Cả cái gọi là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tô điểm việc Hồ ra đi là để tìm đường cứu nước. Nhưng thật sự, chỉ là để . . . cứu đói cho dạ dầy của chính y mà thôi. Hồ, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.  Vào năm 1911, sau khi cha y bị mất việc, y đã đổi  tên là Nguyễn Tất Thành, xin làm chân quét dọn “Bồi Tầu” trên chiếc tầu buôn “L’amiral Latouche Tréville” bỏ xứ ra đi để kiếm sống. Trước khi đi, y có làm đơn gởi Tổng Thống Pháp, xin học nội trú ở “Trường Thuộc Địa” nhưng bị từ chối.
Ghi chú: Trường Thuộc Địa, sau này đổi tên là “Trường Hậu Bổ”, tiền thân của “Trường Quốc Gia Hành Chánh” sau này. Trường này đào tạo công chức cho chính quyền Pháp. Nếu được học, sẽ được nuôi học nội trú, ra trường sẽ đương nhiên được tuyển dụng).  
Đến năm 1917, mê mệt về chủ thuyết Mác Xít và Lê Nin, Hồ đã đổi tên là Nguyễn Ái Quốc để dời Pháp đi Nga xin vào làm đảng viên đảng Cộng Sản Quốc Tế.
 2.    NGÀY SINH CỦA HỒ LÀ NGÀY NÀO? NGÀY CHẾT LÀ NGÀY NÀO?
 Chẳng ai biết Hồ sinh ngày nào cả! Vì chính y đã dấu biến cái giấy khai sinh, đổi tên là Nguyễn Tất Thành và cuối cùng là Hồ Chí Minh. Trong đơn xin học ở Trường Thuộc Đia, y khai tên là “Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1892, tại Vinh (không hề khai ngày sinh) và tên bố là Nguyễn Sinh Huy. 
Sở dĩ có cái ngày sinh 19 tháng 5, là vì (Theo lời kể của ông Vũ Thư Hiên, con của ông Vũ Đình Huỷnh, thư ký riêng cho Hồ Chí Minh):
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1945 (?), Đô Đốc Thierry D’Argenlier đại diện chính quyền Pháp, có đi từ Hải Phòng ra Hà Nội để họp với Hồ Chí Minh. Để tạo ra một bộ mặt vui tươi cho thành phố Hà Nội, Hồ nói với Huỳnh là “Anh gởi công văn đi khắp nơi, nói rằng, tổ chức sinh nhật cho tôi”
Như vậy, cái ngày sinh 19 tháng 5 của Hồ, là ngày sinh . . . tự tạo ra mà thôi, chứ không phải là ngày sinh thật sự.
Ngày chết của Hồ, chính ra là ngày 2 tháng 9 năm 1969, nhưng vì còn cần thời gian để thu xếp mọi việc, nên Đảng Cộng Sản đổi lại ngày chết của Hồ là ngày 3 tháng 9.
 3.    HỒ CHÍ MINH ĐỘC THÂN HAY CÓ VỢ? BAO NHIÊU VỢ?
Hồ đã một lần lấy vợ có ký hôn thú đường hoàng, hai người vợ . . . không bao giờ cưới và hai người tình . . . không chân dung.

Hồ và vợ con ở Bắc  Kinh
Tăng Tuyết Minh

Người vợ có cưới hỏi của Hồ, tên là  Tăng Tuyết Minh, người tỉnh Quảng Châu. Hồ ký hôn thú với Minh vào ngày 10 tháng 5 năm 1926 dưới cái tên Lý Thụy. Tới tháng 10 cùng năm, y rời Quảng Châu đi Hồng Kông và không bao giờ trở lại với Minh nữa, mặc dù Minh có viết thư nhờ nhiều người đưa tới cho Hồ.
Nguyễn Thị Vinh, tức Nguyễn Thị Minh Khai, là “Thư Ký Riêng” của Hồ, sống chung với nhau trong thời gian Hồ ở bên Nga.
 Người đàn bà được nhắc tới nhiều nhất trong cuộc đời của Hồ là Nông Thị Xuân. Xuân có một đứa con với Hồ, đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Xuân đòi Hồ phải cưới hỏi đường hoàng, nhưng Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tô son điểm phấn cho Hồ trở thành một người “Độc Thân, suốt đời lo phụng sự nhân dân” nên không thể làm theo lời của Xuân được.
Vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, Tạ Quang Chiến (cận vệ của Hồ, sau làm Tổng Cục Trưởng Thể Thao) cùng với Trần Quốc Hoàn (sau là Giám Đốc Công An) đưa xe tới đón Xuân, nói rằng “Tới gặp Hồ” Sáng hôm sau, công an tới nhà Xuân báo cho biết, Xuân đã bị tai nạn xe cộ chết, hiện xác còn quàn tại bệnh viện Phủ Doãn. Em của Xuân là Nông Thị Vàng tới bệnh viện thì được bác sĩ cho biết, trên người Xuân không có thương tích do xe đụng, mà chỉ có cái xương đỉnh đầu bị nứt, do một vật cứng như búa đánh vào gây tử thương mà thôi.
Tới ngày 2 tháng 11 năm 57, Vàng đi thăm người Cậu thì bị giết chết, xác quăng xuống sông Bằng Giang.
 Theo một số tài liệu khác, ngay trên đường đi, chính Trần Quốc Hoàn đã bóp cổ Xuân cho đến chết, rồi mới xô xác của Xuân xuống đường, cho chính xe chở Xuân cán qua xác chết hai lần rồi mới chạy đi.
Số phận của mẹ đã như vậy, số phận đứa con trai ra sao?
Nguyễn Tất Trung, mới đầu, được giao cho Hội Phụ Nữ nuôi, nói rằng đứa trẻ . . . mồ côi cả cha lẫn mẹ. Sau đó, giao cho Tướng Chu Văn Tấn nuôi. Đến khi Tấn bị tù và chết trong tù, Trung được giao cho Vũ Kỳ nuôi. Sau đó, Nguyễn Tất Trung biến mất trên giang hồ, cho đến nay không ai biết ở đâu?
Ngoài những người đàn bà kể trên, người ta còn nghe nhắc đến Đỗ Thị Lạc và Nguyễn Thị Phương Mai, nhưng ít ai được biết tới.
 4.    TỘI ÁC CỦA HỒ CHÍ MINH.
Hồ chỉ trở vể Việt Nam vào năm 1941, với mục đích duy nhất là mở rộng biên giới cho chủ nghĩa của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. Chiếm Miền Bắc, chỉ là một phần trong chính sách của Hồ để nhuộm đỏ toàn Đông Dương mà thôi. Ngoài nhưng tội ác như thanh toán cảc đảng phái Quốc Gia, tố cáo Phan Bội Châu, Phạm Quỳnh với mật thám Pháp, Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm hai tội ác tầy trới, được coi là “Tội ác chống lại nhân loại”:
4A. GIẾT DÂN LÀNH QUA CHÍNH SÁCH “CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT”
Ngay sau khi chiếm được miền Bắc, Hồ và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa đàn em đi qua Bắc Kinh học tập chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” và đem về áp dụng ngay. Kết quả là hơn 172,008 người dân lành bị ghép vào tội “Địa Chủ” và đem ra đấu tố cho đến chết, ruộng đất của họ (nếu có) bị đem xung công cho nhà nước “Quản lý”
 
Những người bị kết tội là “Địa Chủ, Cường Hào Ác Bá” bị đấu tố cho tới chết.

4B. PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH TỔNG TẤN CÔNG TẾT MẬU THÂN 1968 TÀN SÁT DÂN LÀNH
Tết Mậu Thân, Hồ đọc thơ chúc tết trên đài phát thanh để phát động chiến dịch “Tổng Tấn Công Toàn Miền Nam”. Khi chiếm được Huế, trong vòng 20 ngày, bọn Việt Cộng đã thảm sát hơn 6000 dân quân cán chính của Miền Nam. Xác chết của họ bị đầy xuống hố chôn tập thể mà cho đến nay, vẫn còn nhiều hố chôn chưa được tìm thấy.

Xác chết của đồng bào Huế được tìm thấy trong những hố chôn tập thể.

  1. TỰ XƯNG DANH LÀ ĐƯỢC UNESCO PHONG LÀ NHÀ VĂN HÓA THẾ GIỚI.
Năm 1987, Võ Đông Giang, đại diện của Việt Cộng ở Unesco (Tổ Chức Văn Hóa Liên Hiệp Quốc) nộp đơn xin chấp nhận Hồ là một nhà văn hóa thế giới. Để chứng minh, Giang và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tự nhận cuốn thơ “Ngục Trung Nhật Ký” là của Hồ. Thực ra, cuốn thơ này là do một ai đó đã viết ra trong khoảng thời gian từ năm 1932 tới năm 1933. Nội dung toàn là những bài thơ nói về cuộc kháng chiến chống Nhật của dân Trung Hoa, ca tụng Tưởng Giới Thạch. Không lẽ Hồ là Cộng Sản, mà lại làm thơ ca tụng một lãnh tụ của Quốc Gia?

“Ngục Trung Nhật Ký”

Còn hai cuốn sách “Vừa đi vừa kể chuyện” do T Lan (Trần Thái Lan) viết, và cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” do Trần Dân Tiên viết, cả cái đảng Cộng Sản đánh bóng lên, cả hai người này đều là do Hồ viết ra. Nếu do Hồ viết ra, hai cuốn sách này không thể nào được coi là sách tài liệu cả, vì lại do chính Hồ viết ra để tự khoe khoang thành tích của mình.
Rất tiếc, đề nghị này đã bị Unesco từ chối.
Nhưng, Giang đã xin mướn một phòng ở Unesco để tổ chức sinh nhật thứ 100 cho Hồ để rồi hô hoán lên rằng, đó là buổi lễ của Unesco, công nhận Hồ là “Nhà Văn Hóa Thế Giới” đến nỗi chính Unesco phải gởi thơ ra phủ nhận chuyện này.
Những điều ghi nhận trong DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” là một DVD thật đáng xem. Theo lời của Cha Lễ, phải làm cách nào đó để DVD này được chuyển về  Việt Nam, cho đồng bào trong nước xem mà hiểu rõ về Hồ, cho Hồ vào sọt rác. Nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam, xem để mà đừng tuyên truyền đánh bóng Hồ nữa.

Nguyễn Khắp Nơi
Theo: Việt Luận

HUYỀN THOẠI VÀ SỰ THỰC: HỒ CHÍ MINH TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Để tiến hành sửa sai Cải cách Ruộng đất (CCRĐ), Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Hồ Chí Minh đề nghị phương châm: “phải bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”. (HCMBNTS, tập 6, trang 334) Theo lời đề nghị của ông, Hội nghị quyết định: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương.

Chi tiết về Hội nghị này vẫn còn trong bí mật. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất một Hội nghị Trung ương ĐCS đã không đưa ra được nghị quyết tổng kết. Nguyên Đại sứ tại Trung Quốc, ông Hoàng Văn Hoan cho biết: “Hội nghị Trung ương đáng lẽ ra phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về CCRĐ, nhưng Trường Chinh, vừa là Tổng Bí thư, lại vừa là Trưởng ban CCRĐ, vì tư tưởng chưa thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không đựơc Hội nghị Trung ương chấp thuận.”

Về người chịu trách nhiệm chính, ông Vũ Đình Huỳnh cho biết: "khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh , chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ". Vậy mà sau hơn 60 năm, trách nhiệm của Hồ Chí Minh vẫn còn được bao phủ bằng nhiều huyền thoại, che lấp nhiều sự thật khủng khiếp đã xẩy ra trong cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam (1949-56).

Huyền thoại và sự thực “ Của Bác

Gần đây người viết đã phát hiện bài Địa chủ ác ghê trên báo Nhân Dân ra ngày 21 tháng 7 năm 1953 đã được in lại trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C. B. cũng do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955. C. B. là một trong hằng trăm bút danh của Hồ Chí Minh với hằng trăm bài trên báo Nhân Dân viết trong khỏang thời gian 1952 đến 1956. Bài Địa chủ ác ghê lên án bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm là địa chủ phản động cường hào ác bá. Bà và hai con theo Pháp theo Nhật bắt bớ cán bộ cộng sản và đã giết ngót 260 nông dân. (xin xem bài Vai Trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất hay bài Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh để biết chi tiết)

Một bạn đọc cùng quê Hồ Chí Minh góp ý rằng C. B. là viết tắt của “Của Bác”.

Bài báo “Của Bác” đã được phổ biến rất rộng rãi để lý giải việc xử bắn bà Năm là một việc làm chính đáng. Bài được đăng lại trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953) hay trong Nội san Cải cách Ruộng đất. Ông Bùi Tín cho biết bà Năm bị xử bắn vì "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Phóng viên báo chí đây lại chính là “Của Bác” thì làm sao bà Năm tránh khỏi án tử hình.

Thế mà tới đầu thế kỷ thứ 21, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hoàng Tùng vẫn tiếp tục thêu dệt huyền thoại: “chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước, là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ' Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".

Bài "Địa chủ ác ghê" được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953. Lúc ấy Hoàng Tùng là phó Tổng Biên tập. Đến năm 1955 khi bài báo được đăng trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất thì Hoàng Tùng đã lên Tổng Biên tập. Ông chắc chắn phải biết bài viết “Của Bác” và hậu quả của bài viết này.

Nhà báo Bùi Tín lại cho biết: "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Hoàng Quốc Việt làm gì không biết chuyện Bộ Chính trị, trong đó có cả Hoàng Quốc Việt và Hồ Chí Minh, đã biểu quyết việc xử bắn bà Nguyễn Thị Năm.

Hồi ký của ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng CHXHCN Việt Nam, viết rất rõ: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!" Rõ ràng huyền thoại này chỉ được thêu dệt sau khi sửa sai và được chính thức phổ biến từ nhiều cán bộ cao cấp.

Ba dẫn chứng trên cho thấy cả một guồng máy tuyên truyền đã không ngừng loan tải huyền thoại “Của Bác” để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo”. Hoàng Tùng và Hoàng Quốc Việt xác nhận đây là một câu chuyện do chính ông Hồ dựng lên. Câu chuyện được các cán bộ cộng sản cao cấp như Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng thêu dệt để trở thành huyền thoại. Huyền thoại lại được những người như Bùi Tín kể lại, nếu không có những bằng chứng cụ thể khó mà phá vỡ được.

Điều đáng nói là huyền thoại do Bùi Tín kể lại đã đề cập đến việc “sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Như vậy quả là đúng Trường Chinh đã là con dê được Hồ Chí Minh mang ra tế thần. Nói cách khác Hồ Chí Minh đã trút tất cả trách nhiệm vụ xử bắn bà Năm lên đầu Trường Chinh nhằm chạy tội và duy trì quyền lực.

Cũng do guồng máy tuyên truyền này, càng ngày càng nhiều người biết đến bà Năm. Bà đã trở thành một con người của lịch sử. Một lịch sử bị che đậy đầy huyền thoại dối trá đang cần từng bước đưa ra sự thật.

Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm

Đến nay thông tin về điền chủ Nguyễn Thị Năm còn hết sức giới hạn. Chỉ biết trong thời gian đấu giảm tô để tiến đến CCRĐ, sáu xã huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một đại điền chủ có tới 2,789 mẫu đất thuộc hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long hay Cát Thanh Long. Khi ĐCS còn hoạt động bí mật, bà che giấu và nuôi dưỡng nhiều lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... Trong "Tuần lễ vàng" bà đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng vàng.

Theo tin của nhà báo Bùi Tín: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nói cách khác bà Năm không phải là địa chủ phản động cường hào ác bá như trong bài Địa Chủ Ác Ghê đã viết.

Ông Nguyễn Minh Cần thì cho rằng “Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương duyệt y và Bộ Chính trị Đảng Lao độngt Việt Nam cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!”

Qua điện thơ, một bạn đọc từ Việt Nam cho biết: “Bà Nguyễn Thị Năm, có cửa hàng bán đồ cơ khí (sắt) tại đường Cầu Đất, một phố trung tâm của Hải Phòng . Cửa hàng của bà gọi tên là Cát Thanh Long, bây giờ là số nhà 87 Cầu Đất (cạnh Hiệu sách " NHÂN DÂN ", nay là hiệu sách quốc doanh). Cửa hàng của bà có mặt ngoài làm bằng đá granito màu huyết dụ đầu tiên ở thành phố Hải Phòng . Con trai cả của bà, tên là Nguyễn Đức Phú, cũng có một cửa hàng nhỏ hơn (tên ĐỨC PHÚ), nằm ở phố Nguyễn Đức Cảnh, đầu ngõ Hàng Gà, đối diện với cầu Caron (nay cầu này không còn nữa) vừa là nhà ở, vừa là nơi sản xuất đồ cơ khí của ông.”

Hai người con trai kế của bà là ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin. Bạn đọc nói trên cho biết bà Năm còn có hai người con gái nhỏ.

Cuối tháng 10-1953 được thả và về đến Sài Gòn, ông Đoàn Duy Thành đã được một người tên Nam kể lại rằng bà Năm đã bị xử bắn. Như vậy có thể bà đã bị xử bắn trong khoảng thời gian bài “Của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953 đến giữa tháng 10-1953.

Còn việc ông Bùi Tín đề cập đến: "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này (xử tử bà Năm) với ông Hồ Chí Minh...” là thiếu chính xác vì mãi đến cuối năm 1954 Hồ Chí Minh mới về lại Hà Nội.

Bà Nguyễn Thị Năm, nạn nhân đầu tiên?

Một sự thực khác là bà Nguyễn Thị Năm không phải là nạn nhân đầu tiên. Có thể vì bà quá nổi tiếng nên là người đầu tiên và duy nhất buộc Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương phải thảo luận và biểu quyết.

Theo ông Hoàng Minh Chính, trong vụ đấu chính trị xảy ra trước đó vào đầu năm tháng 1 và 2-1953 thì “trung bình mỗi xã có từ ba đến 5 người bị đánh chết, họặc vì uất ức phải tự tử, trong số đó có một bộ trưởng chính phủ là ông Đặng Văn Hướng”. Ông Đặng Văn Hướng là thân sinh đại tá Việt Minh Đặng Quốc Việt, một thời vang danh “anh hùng đường số 4”. Ông Nguyễn Minh Cần góp ý với người viết rằng có thể ông Hoàng Minh Chính nhớ không đúng. Theo ông Cần, ông Đặng Văn Hướng đã bị đấu trong thời đấu CCRĐ sau này.

Tháng 11-1953, ngay khi về lại miền Bắc, ông Đoàn Duy Thành đã nghe ”Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách Ruộng đất, có nơi như thôn Lan, Kim Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?)”. Ông Thành dùng dấu chấm hỏi trong ngọăc kép (?) để hỏi có phải đúng 3 người này là địa chủ cường hào hay không ? Đây là cách suy nghĩ của người cộng sản. Cho đến nay vẫn còn nhiều gia đình cho là bị oan nghĩa vì họ không phải là phản động cường hào ác bá.

Hiến pháp 1946, cũng được xem là Hiến pháp “Của Bác”, là một Hiến pháp cộng hoà và dân chủ. Theo Hiến pháp 1946 thì mọi công dân đều bình đẳng. Trong khi Hiến pháp này vẫn còn đó thì ông Hồ lại muốn xây dựng một thể chế cộng sản lấy đấu tranh giai cấp làm nền tảng.

Sự thật là trong Hiến pháp này, không phải mọi người đều bình đẳng. Có một điều ngoại lệ là Chủ tịch Hồ Chí Minh vì là lãnh tụ nên theo điều thứ 50: "Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc". Vì thế Hồ Chí Minh đã không phải chịu trách nhiệm dù đã tiêu diệt một giai cấp. Một giai cấp mà theo Hồ Chí Minh ước tính là chiếm "không đầy 5 phần trăm dân số" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509).

Số nạn nhân CCRĐ

Không biết Hồ Chí Minh đã lấy từ đâu ra con số tỷ lệ địa chủ 5% dân số. Có điều trong quyển Vấn đề dân cày do Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp viết vào năm 1937-1938 thì con số đó nhỏ hơn nhiều. Theo hai ông “Ở Trung kỳ và Bắc kỳ có hạng tiểu địa chủ, chỉ có mươi, mười lăm mẫu ruộng cho cấy rẽ, ngồi không mà hưởng địa tô. Lại có nhiều làng không có địa chủ, chỉ có từ phú nông trở xuống. Trái lại bần cố nông chiếm đa số... Nếu ta tin ở thống kê của ông I-vơ Hăng- ri (Yves Henri) thì ta thấy: ở Bắc kỳ dân số hơn 8 triệu người mà số dân quê có trên một mẫu là 970.379 người, nghĩa là một phần hai mươi trong nhân dân” (VĐDC, trang 24-25)

Con số hoặc tỷ lệ ước tính trong phần trích dẫn bên trên là sai. Nếu con số 970.379 người là đúng, giả sử mỗi gia đình nông dân có sáu người thì đại đa số dân quê đều là tiểu nông. Còn nếu tỷ lệ là đúng thì tỷ lệ dân quê có trên một mẫu ruộng là 5% dân số. Và như thế CCRĐ đã đấu tất cả những người có trên một mẫu ruộng.

Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp còn viết rất rõ: “Trong 18 tỉnh (ở Bắc Kỳ ), người ta tính được 12.005 địa chủ sống về cách cho cấy rẽ” (VĐDC, trang 97). Trung bình một gia đình điền chủ là 6 người thì tỷ lệ chưa đến 1% dân số. Vì chiến tranh, nhiều điền chủ đã mất đất hay rời bỏ thôn quê lên thành thị. Nhiều điền chủ biết không thể sống với cộng sản nên di cư vào Nam tìm tự do. Do đó con số điền chủ trong những năm 1955 và 1956 có thể nhỏ hơn nhiều. Như vậy "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số" theo ước tính “Của Bác” có thể đã được phóng đại cả chục lần nhiều hơn con số thực.

Có người cho rằng con số 5 % dân số là do cố vấn Trung Quốc dựa trên thực tế cuộc CCRĐ tại Trung Hoa. Điều này có thể không đúng. Ở Trung Hoa, với một mức độ tập trung ruộng đất rất cao nên đa số điền chủ là các đại điền chủ. Vì thế tỷ lệ điền chủ trên dân số ít hơn nhiều. Cuộc cải cách ruộng đất ở Trung Hoa cũng “long trời lở đất” nhưng không thể so với những chuyện đã xảy ra tại miền Bắc Việt Nam. Ngày nay đa số tài liệu về cuộc CCRĐ tại Trung Hoa đều đã được công khai phổ biến.

Ông Hoàng Văn Hoan lại đưa ra những tin tức hoàn toàn khác: "Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như đưa thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc". Mặc dù Hoàng Văn Hoan là một người thân Trung Quốc, nhưng ai đúng ai sai chỉ biết được khi nào các tài liệu liên quan đến sự việc được công khai phổ biến.

Ông Hoàng Minh Chính có thể là người đầu tiên đã sử dụng con số 5% để ước tính số nạn nhân của cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam. Theo đó, con số này đã lên đến 500.000 người. Một con số trong một thời gian dài bị cho là phóng đại. Có điều những người không đồng ý với ông thường không cho biết xuất xứ con số hay cũng chỉ dựa trên những huyền thoại hay con số tuyên truyền do cộng sản đưa ra.

Gần đây sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, Tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 tiết lộ trong cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) đã có 172.008 người bị quy là địa chủ hay phú nông. Trong đó có 123.266 người (72%) bị quy sai thành phần.

Chính cương ĐCS đề ra việc “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Theo đó giai cấp địa chủ là kẻ thù của Đảng, của nhân dân, phải bị tiêu diệt. Vì thế trong CCRĐ địa chủ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà tù. Do đó khi bị quy là địa chủ nhiều người đã tự tử vì uất ức hay để tránh những nhục hình.

Cũng theo tập tài liệu này, chỉ riêng đợt 5 CCRĐ, được thực hiện ở 3.563 xã với khoảng 10 triệu dân và tỷ lệ đã được quy định trước là 5 % thuộc thành phần địa chủ. Để vượt chỉ tiêu do “Bác và Đảng” đề ra, các đội cải cách đã đôn tỷ lệ lên đến 5,68%. Như vậy con số nạn nhân đã lên đến 568.000 người. Con số này bao gồm thân nhân, gia đình của những người bị quy là địa chủ. Khi bị quy là thành phần địa chủ họ cũng bị cô lập đối xử phân biệt và bị cướp hết tài sản. Nhiều người chết vì đói, vì bị ức hiếp hay bị hãm hiếp.

Chưa kể bất cứ ai nếu không chấp nhận cuộc đấu chính trị, đấu giảm tô hay đấu CCRĐ đều có thể trở thành nạn nhân của cuộc đấu tiêu diệt giai cấp địa chủ này. Một sự thực khác là cuộc CCRĐ (1949-56) không phải chỉ “đào tận gốc, trốc tận rễ” giai cấp địa chủ, mà “trí, phú và hào” tại nông thôn cũng không thóat khỏi cuộc đấu “long trời lở đất” này. Theo báo cáo của Bộ Chính trị tháng 10 năm 1956 thì chỉ riêng tổng số đảng viên bị "xử trí" đã lên tới 84.000 người.

Cũng cần nói, trước đó trong cuộc đấu chính trị và đấu giảm tô, số nạn nhân đã lên đến hằng vạn người. Như thế con số người bị giết trong CCRĐ và chỉnh huấn có thể lên đến vài trăm ngàn người không phải là con số đựơc phóng đại. Với Hồ Chí Minh và ĐCSVN đây là một thành quả vĩ đại vì đã tiêu diệt được giai cấp địa chủ. Nhưng sự thực đây lại là cuộc diệt chủng khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam.

Hồ Chí Minh khóc trong sửa sai ?

Sự thực về việc ông Hồ đã khóc khi đọc quyết định sửa sai và xin đồng bào tha lỗi được ông Nguyễn Minh Cần cho biết như sau “Ngày 29-10-1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: ‘Bác đến không tiện’, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra ‘chịu trận’ thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.”


Photobucket


Tài liệu của Cục Lưu trữ Quốc gia Nga về CCRĐ

Gần đây có hai bức thư của Hồ Chí Minh gởi Stalin, xin được xem xét và cấp chỉ dẫn cho Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, được phát hiện lưu trữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia Nga. 

Bức thư thứ nhất

Đồng chí Stalin kính mến:

Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.

Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
....

Hồ Chí Minh
30-10-1952


Bức thư thứ hai

Đồng chí Stalin kính mến:

Xin gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San.

Đề nghị đồng chí xem xét và cho chỉ dẫn.

Gửi lời chào cộng sản.

Hồ Chí Minh
31-10-1952

Đối chiếu với Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử thì trong tháng 9 và 10 năm 1952 ông Hồ đang ở trong nước. Nhưng theo hồi ký của Vu Hoá Thẩm thì hạ tuần 9-1952, Hồ Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc, sau đó sang Liên Sô dự Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Sô. Chuyến đi còn để báo cáo và xin phép Liên Sô và Trung Quốc chấp nhận Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình này do chính ông Hồ và hai đồng chí Trung Quốc Lưu Shao Shi và Văn Sha San đồng soạn.

Cả hai bức thư đều viết bằng tiếng Nga. Trong bức thư thứ nhất Hồ Chí Minh viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Trung Hoa. Trong bức thư thứ hai ông viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Việt. Ông Nguyễn Minh Cần cho biết nét chữ Nga trong hai bức thơ là nét chữ của một phụ nữ.

Chương trình CCRĐ “Của Bác” chắc vẫn còn được lưu trữ trong Cục Lưu trữ Quốc gia Nga và một ngày sẽ được phát hiện. Biết đâu con số 5% dân số là thành phần địa chủ đã được đề xướng từ Chương trình CCRĐ “Của Bác”.

Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù

Linh mục Lê Đức Trong tham dự họp đấu địa chủ đã kể lại: “Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta… Người ngồi sau run sợ ! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta’. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi! Sợ sệt và sợ sệt…!” Sau ba đợt đấu: đấu chính trị, đấu giảm tô vầ đấu cải cách ruộng đất, miền Bắc phủ một màu tang trắng. Sự kinh hoàng sợ hãi của cái chết bao trùm khắp nơi. Cuộc sửa sai gia tăng sự sợ hãi vì người tham gia cải cách nay sợ bị trả thù. Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù là căn bản để ĐCS dựa vào đó xây dựng một nền chuyên chính vô sản, một thể chế công an trị còn tồn tại đến ngày nay.

Cũng cần nói CCRĐ đã phá tan nền tảng văn hoá nhân bản của dân tộc, phá tan phong tục cổ truyền và nếp sống làng thôn Việt Nam, để từ đó ĐCS dễ dàng áp đặt tư tưởng Nga Sô-viết và Trung Quốc của Mao vào cuộc sống của mọi tầng lớp dân chúng tại miền Bắc Việt Nam.

Cuối đời Hồ Chí Minh

Câu chuyện bà Năm bị xử bắn do cố vấn Trung Quốc và do Trường Chinh quyết định chỉ là một trong rất nhiều huyền thoại do chính ông Hồ dựng nên. Huyền thoại có thể dối gạt dân chúng. Nhưng sự thực mới có thể thuyết phục được nội bộ giới cầm quyền cộng sản Việt Nam đương thời. Nhiều bằng chứng cho thấy sau sửa sai, uy tín và quyền lực của Hồ Chí Minh đã mất dần và sau đó lọt vào tay Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.

Nghiên cứu về lịch sử cận đại Việt Nam mà thiếu tìm hiểu cặn kẽ vai trò của Hồ Chí Minh là một thiếu sót lớn. Thế nhưng tài liệu về Hồ Chí Minh lại thiếu, không có, hay lại đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá. Bài viết trước người viết đã cho thấy việc ông Hồ ra lệnh bắn bà Năm nhằm xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam (xin xem bài Vai Trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất hay bài Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh để biết chi tiết). Bài viết này làm rõ thêm việc Hồ Chí Minh tạo ra những những huyền thoại chỉ để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”, trong khi CCRĐ đã giết hàng trăm ngàn dân vô tội.

Không riêng gì trong CCRĐ, cuộc đời Hồ Chí Minh đã gắn liền với đam mê quyền lực. Ngày 2/9/1945 là ngày mà ông Hồ đạt được tột đỉnh quyền lực, được đa số dân Việt ủng hộ. Ngày 2/9/1969 Hồ Chí Minh trút hơi thở cuối cùng, một trùng hợp ngẫu nhiên hay một hành động kết liễu một đời người? Càng ngày càng nhiều chỉ dấu cho thấy vào cuối đời Hồ Chí Minh trong tay không còn chút quyền lực hay chỉ là một người tù trong một nhà tù do chính ông dựng lên.

Hiểu rõ sự thực cuộc đời của Hồ Chí Minh chẳng những giúp chúng ta hiểu thêm về con người thật của ông mà còn giúp chúng ta viết lại một lịch sử cận đại Việt Nam. Một lịch sử đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá chỉ nhằm để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”.

31/8/2010, Melbourne, Úc Đại Lợi
Tài liệu tham khảo
Đoàn Duy Thành, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn
Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964 
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, talawas
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989

Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự Thật, 1955

Thành Tín, Mặt thật.

Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp: Vấn đề dân cày, Xuất bản lần thứ hai, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

Phao Lồ Lê Đắc Trọng, Chứng từ của một giám mục: Những câu chuyện về một thời, Diễn Đàn Giáo Dân tái bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ.

Nguyễn Quang Duy
Theo: Diễn Đàn Net