Năm 2007, Tủ sách Khối 8406 đã hân hạnh mở đầu với tập tài liệu “Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc” do Nhóm Tâm Việt, Sydney, Úc châu, biên soạn, gồm có 5 chương. Với thời gian, Nhóm tác giả đã sửa chữa rồi bổ túc thêm cho phong phú (đặc biệt bằng cách trích dẫn vô số chứng từ) và đã hoàn thành đầu năm 2010 với 10 chương cả thảy. Nay được phép các tác giả, chúng tôi ấn hành tài liệu này thành 3 tập (theo khuôn khổ bình thường của Tủ sách), tập nhất 3 chương rưỡi, tập nhì 3 chương rưỡi và tập cuối 3 chương.
Mở đầu với chương “Cuộc chiến tranh của HCM đánh dân tộc” (vốn trở thành nhan đề của tác phẩm), tác giả cho thấy ngay từ khởi thủy, Hồ Chí Minh, một nhân viên của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, không bao giờ có ý định đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, đem tự do cho Dân tộc, nhưng chỉ muốn mở rộng đảng Cộng sản và Đế quốc đỏ ở vùng Đông Nam Á, theo lệnh của Stalin. Với mục tiêu này, HCM chỉ coi dân Việt là phương tiện. Vì thế, ai cản trở ông và đảng ông trên con đường mở rộng chủ nghĩa và chế độ CS thì phải bị tiêu diệt. Lễ tế cờ của ông (chương 2), mở đầu cuộc chiến tranh này, do đó đã làm đổ máu 20 ngàn nạn nhân (cuối 1945 đầu 1946).
Tiếp theo đó, tác giả cho thấy những phương cách mà HCM đã tiến hành cuộc chiến tranh đánh Dân tộc: dùng nhiều tên giả để che giấu tung tích (chương 3), đưa ra cái bánh vẽ tự do, độc lập, hạnh phúc để lường gạt người Việt (chương 4), đào tạo nhân viên, cài cắm cán bộ vào trong lòng mọi tổ chức quốc gia, mọi tầng lớp xã hội để theo dõi, kiểm soát, khống chế, lũng đoạn và tiêu diệt (chương 5).
(xin vui lòng xem tiếp tập 2)
CHƯƠNG 1
CUỘC CHIẾN TRANH CỦA HỒ CHÍ MINH
ĐÁNH DÂN TỘC
Hồ Chí Minh xuất hiện!
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, xuất hiện một nhân vật mang tên Hồ Chí Minh. Đó là một ngày vô cùng quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam: ngày Hồ Chí Minh xuất hiện như Cha già Dân tộc yêu nước thương dân và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Trên hai mươi triệu người dân Việt, với khí thế hào hùng vừa phá vỡ được xiềng xích của cả trăm năm nô lệ, tưng bừng với nỗi vui mừng được độc lập tự do hạnh phúc và chung một lòng hướng về tương lai huy hoàng rực rỡ.
Trong quyển Nếu đi hết biển, tác giả Trần Văn Thủy thuật lại chuyện đã gặp bác Nguyễn Văn Quý, một nhân chứng có mặt ở Hà Nội trong giây phút lịch sử đó. Bác Quý là dân Hà Nội, di cư vào Nam sau hiệp định Genève, là viên chức cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, rồi lại bị Việt cộng bắt đi học tập cải tạo, và sau cùng may mắn vượt biên thành công và được định cư tại Tây Đức. Trần Văn Thủy hỏi bác Quý (trang 50 sách đã dẫn, sđd): “Nghe nói vào tháng 8, tháng 9 năm 1945 bác có mặt ở Hà Nội, bác có kỷ niệm gì đáng nhớ?”. Bác Quý, người miền Bắc di cư, một thuyền nhân vượt biên, đã từng nếm mùi học tập cải tạo của Việt Cộng, trả lời như sau: “Tôi đã có mặt trong ngày Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945. Quảng trường Ba Đình như một biển người cuồn cuộn, cuồn cuộn. Một rừng cờ và biểu ngữ, trùng trùng, điệp điệp. Cụ Hồ đi một chiếc xe Peugeot hay Citroen gì đó, có hai đoàn xe đạp hộ tống, tiếng hoan hô vang dậy...”
Theo Trần Văn Thủy thì khó tìm gặp được một người nào kể về Cách mạng Tháng tám, kể về ngày 2-9-1945 mà hào hứng, tình cảm, sinh động, da diết như bác Quý.
Một nhân chứng thứ hai thuật lại ngày lịch sử 2-9-1945 cũng hào hứng không kém. Đó nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, cũng là người miền Bắc di cư. Với bút hiệu Nguyễn Kiên Trung, trong tác phẩm Đem tâm tình viết lịch sử được giải Văn học Nghệ thuật thời Đệ I Cộng hòa, ông đã khéo léo dùng hình thức một lá thư gởi cho một người bạn tên Trung để kể lại giây phút hào hùng của lịch sử. Lá thư của tác giả gởi cho người bạn tên Trung đề ngày 3-9-1945 được viết như sau (tr. 17 sđd):
“Hôm nay viết cho Trung mà tâm hồn tôi còn thắm mầu của cả một rừng cờ, còn rực lên tiếng reo của muôn vạn người say sưa giữa vườn hoa Ba Đình. Chao ôi, Trung! Chúng tôi, hôm qua, đã uống từng tiếng, từng chữ của bài Tuyên ngôn Độc lập. Và thế là chúng ta đã trở nên những công dân của một nước Độc lập, trước quốc tế, trước thế giới, trước nhân loại và trước Trời, Đất.
Tôi có thể nói với Trung rằng mười lăm đêm nay tôi không hề chợp mắt ngủ. Mà tôi không mệt. Trái lại, sau mỗi đêm thao thức để toan tính, để thèm khát những ngày mai nhất định rực rỡ, rực rỡ như cha mẹ tôi, ông bà tôi chưa bao giờ biết, thì cứ mỗi lần ánh sáng mặt trời trở lại chiếu vào lá cờ đỏ thắm vẫn phấp phới trước cửa nhà là một lần tôi được tiêm thêm một liều sinh lực. Mỗi ngày chúng tôi một thêm khỏe, mỗi ngày chúng tôi một thêm hăng hái. Chúng tôi hăng hái đến nỗi có những lúc muốn chết, muốn chết ngay cho Tổ quốc, và chết ngay giữa lúc vinh quang sáng chói này.”
Giữa lúc vinh quang sáng chói đó, Hồ Chí Minh xuất hiện. Đó là lần đầu tiên Hồ Chí Minh xuất hiện trước Dân tộc và long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Như một loài Linh tửu vô cùng quý giá mang tên Độc lập được tinh luyện hằng tám mươi năm dài, ngày hôm đó người dân Việt được thưởng thức và đã uống từng tiếng, từng chữ của bài Tuyên ngôn Độc lập ấy. Họ đã say men Độc lập, say đến nỗi có những lúc muốn chết, muốn chết ngay cho Tổ quốc, và chết ngay giữa lúc vinh quang sáng chói đó. Nhưng than ôi! Họ đã lầm! Bác Quý của Trần Văn Thủy đã lầm! Người bạn viết thư cho Trung đã lầm! Dân tộc Việt Nam đã lầm! Người dân Việt đã uống nhầm thuốc độc! Hồ Chí Minh đã dối gạt Dân tộc ngay trong lần xuất hiện đầu tiên!
Bây giờ, qua thế kỷ 21, trên 60 năm sau, chúng ta hãy bình tâm nghiên cứu bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh tuyên cáo cùng Quốc dân Đồng bào ngày 2-9-1945 để xem Hồ Chí Minh đã dối gạt Dân tộc như thế nào. Bản Tuyên ngôn đó như sau:
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được.
Bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh còn dài nhưng xin ngưng trích.
Nguyễn Ái Quốc xuất hiện!
Đến đây, nếu ta theo dõi hành tung của Hồ Chí Minh trong quyển Bác Hồ trên đất nước Lênin, Hồng Hà là chấp bút, chúng ta tìm lại được Lời hứa và Hoài bão của Hồ Chí Minh lúc ông ở lứa tuổi ba mươi và còn mang tên Nguyễn Ái Quốc. Trong ngày Lễ Lao động 1-5-1924, ở tại Mạc Tư Khoa trên đất nước Lênin, Hồ Chí Minh được đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc tế Cộng sản sau Lá Cờ đỏ thêu hàng chữ Chúng tôi nguyện đem Lá Cờ của Người đi khắp thế giới. Chữ Người của khẩu hiệu trên là Lênin, lá cờ là Cờ Búa liềm của Liên Xô, và khẩu hiệu trên là mục tiêu tranh đấu của Cương lĩnh Lênin về vấn đề thuộc địa. Đó là Hoài bão của Bác.
Còn Lời hứa của Bác đối với Manuilski thì như sau: “...Tôi (tức Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc) còn chịu trách nhiệm trước Quốc tế Nông dân về tham gia chỉ đạo phong trào nông dân châu Á”. Manuilski tuyên bố trao cho Nguyễn trọng trách lớn hơn: “Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chấp thuận đề nghị của đồng chí. Quốc tế Cộng sản cử đồng chí làm ủy viên ban Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước Đông Nam châu Á”. Nguyễn Ái Quốc hứa với Manuilski: “Tôi tin rằng lần sau gặp đồng chí thì Tổ quốc Việt Nam của tôi đã có đảng Cộng sản”. Với lời hứa đó, ngày 25-9-1924 ban chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ”.
Trong chân lý của lịch sử, khi Hồ Chí Minh về nước đọc bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, thì 21 năm trước tức là năm 1924, ông đã là Quốc tế ủy của Cộng sản Đệ tam Quốc tế, đã ôm ấp hoài bão đem lá cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới, và có lời hứa sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam. Đi Quảng Châu để công tác trong phái bộ Borodin, mọi công tác phí đều do ban Phương Đông đài thọ, mỗi tháng được trợ cấp 60 rúp, nhưng Hồ Chí Minh đã đặt điều dối gạt trong quyển tự truyện Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của chính ông viết với bút danh Trần Dân Tiên rằng ông qua Trung Quốc là tìm đường về nước với mục đích truyền bá lý tưởng bình đẳng, tự do, bác ái học được ở Pháp. Ông lại đặt điều láo khoác rằng: “Ở Trung Quốc, nhờ đọc báo ở mục tìm người làm thông ngôn, nên ông mới đến xin việc với Borodin, nếu không thì ông chỉ đi bán báo và thuốc lá để kiếm sống!”
Có nhiều nhà phê bình cho rằng Hồ Chí Minh lấy bút danh Trần Dân Tiên để viết quyển truyện Những mẩu chuyện... tự ca ngợi mình là Cha già Dân tộc, là điều vô liêm sỉ, một việc không nên làm, nếu thật sự ông đúng là Cha già Dân tộc. Bất chấp lễ nghĩa liêm sỉ, Hồ Chí Minh đã làm được việc tự bốc thơm mình, nhưng thiên bất dung gian, ông cố gắng giấu bộ mặt Cộng sản mà lại lòi đuôi Cáo Hồ. Sự thật trong lịch sử bang giao Nga Hoa trong thời gian Tôn Dật Tiên còn chủ trương Liên Nga Dung Cộng thì phái bộ Borodin được Nga phái sang Quảng Châu cố vấn cho Trung Hoa Dân quốc có Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (dưới ám danh Lý Thụy) tháp tùng với mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ. Tác giả Hồng Hà còn ghi chú thêm tiền trợ cấp hàng tháng là 60 rúp. Mãi sau nầy, năm 2002, nữ Tiến sĩ người Mỹ Sophia Quinn-Judge còn đưa ra ánh sáng thêm: một ngân phiếu của Quốc tế Nông dân vào tháng 8-1925 gởi cho Hồ Chí Minh 5000 rubles (tiền Nga tương đương với 2500 Mỹ kim vào lúc ấy), tiền gởi qua trương mục của Borodin trong ngân hàng Viễn Đông. Ông nào có đi bán báo và thuốc lá để kiếm sống đâu mà bày đặt chuyện nhờ đọc báo thấy mục tìm người thông ngôn mới đến xin việc với phái bộ Borodin. Ông nào có làm công việc thông ngôn tầm thường đâu mà nhiệm vụ của ông là chỉ đạo phong trào Cộng sản ở các nước Đông Nam Á. Ông đã là Quốc tế ủy Kominternchik rồi kia mà! Tại sao Hồ Chí Minh che giấu sự thật và đặt điều dối trá như vậy? Tại sao?
Khi huyền thoại tan tác như sương mù dưới ánh thái dương, người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy rõ như ban ngày vào lúc Hồ Chí Minh về nước đọc Tuyên ngôn Độc lập thì ông đã có 21 tuổi đảng và đảng của ông gia nhập thường được gọi là đảng Bolshevik, là nhóm Stalinien, là Đệ tam Quốc tế, là Komintern, viết tắt là QT3, nhưng thực sự là Đế quốc đỏ Liên Xô có tham vọng bành trướng khắp thế giới, một Đế quốc đi ngược chiều lịch sử của nhân loại. Đã là Đảng viên cao cấp được ủy nhiệm của Đệ tam Quốc tế, là Quốc tế ủy Kominternchik, thế tại sao trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ông lại sao cóp ý của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc?” Tại sao?
Cóp nhặt ý từ bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ chưa đủ, ông lại còn thuổng lời cao ý đẹp “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi” của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Tại sao?
Tại sao ông lại thuổng, sao chép, cóp nhặt, chôm chỉa rất tinh tế những tư tưởng cao đẹp trong Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp để bày tỏ với Dân tộc Việt Nam trong ngày quan trọng nhất của Đất nước? Tại sao? Tại sao hết lớp vỏ bọc này đến lớp vỏ bọc khác, ông luôn tìm cách che dấu chân tướng Cộng sản của mình? Tại sao?
Cái “Cẩm nang thần kỳ, Chủ nghĩa Lênin bách chiến bách thắng” mà ông luôn luôn ca tụng, ông để ở đâu mà sao ông không đem ra khoe? Tại sao? Tại sao Hồ Chí Minh lại quyết tâm và nhẫn tâm lừa phỉnh Dân tộc bằng miếng mồi Tự do Dân chủ Nhân quyền của các nước Mỹ và Pháp ngay trong lần xuất hiện đầu tiên? Tại sao?
Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nghe vang vọng từ hàng nghìn trang chiến sử tiếng khóc than oan ức trong hàng nghìn hàng triệu câu hỏi “Tại sao?” như vậy. Mỗi một người Việt chết trong cuộc chiến là một câu hỏi “Tại sao?”. Một triệu người chết là một triệu câu hỏi “Tại sao?”
Người chết bất luận ở chiến tuyến nào, bác sĩ Đoàn Mạnh Hoạch của Quân đội miền Nam hay nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm của Bộ đội miền Bắc. Tại sao họ phải chết? Tại sao nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm phải sanh Bắc tử Nam? Tại sao?
Và còn biết bao bác sĩ Việt Nam khác nữa như Nguyễn Văn Nhứt, Phạm Đình Bách, Trần Ngọc Minh, Trương Bá Hân, Lê Hữu Sanh, Đỗ Vinh, Nghiêm Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Đệ, v.v… , tất cả là Tinh hoa của Dân tộc, tại sao họ phải chết ngoài chiến tuyến trong khi vào thời gian lịch sử đó các bác sĩ của các nước Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ... được làm lương y săn sóc người bịnh của nước họ trong cảnh thanh bình. Tại sao như vậy?
Không những các bác sĩ Việt Nam bị chết trong chiến trận ngoài tiền tuyến, mà có ba vị bác sĩ người Đức là Krainick, Discher, và Alterkoster, cùng vợ của bác sĩ Krainich là bà Krainich, tất cả bốn người đều bị Việt Cộng bắt giết khi chúng chiếm Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Mãi đến đầu tháng 4-68, mới tìm được xác họ chôn chung một hầm ở gần chùa Tường Vân. Tại sao họ phải chết khi họ đến Việt Nam vì mang nặng tình nhân loại và lòng vị tha để giảng dạy các sinh viên y khoa ở Huế, chạy tiền nuôi bệnh viện, xây bệnh xá tâm thần và phong cùi, mở bệnh xá ở miền quê cách Huế 30 cây số để khám bịnh miễn phí cho người nghèo? Tại sao?
Vén bức màn dày đặc của huyền thoại, người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy rõ như ban ngày là Hồ Chí Minh đã mang hoài bão “đem lá cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới” và đã có lời hứa “Sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam” ngay từ năm 1924. Thế tại sao đến năm 1945 Hồ Chí Minh nhẫn tâm đem miếng mồi Tự do Dân chủ của nước Pháp và Mỹ để nhử Dân tộc Việt Nam? Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy ngay Hồ Chí Minh là kẻ làm chính trị theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó dối gạt Dân tộc, bởi lẽ chủ nghĩa Cộng sản với Tam vô Đấu tranh Giai cấp Độc tài Đảng trị đối nghịch với chế độ Tự do Dân chủ của Tây Phương như nước với lửa, không bao giờ đi chung với nhau. Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nhận rõ “Hoài bão đem Lá Cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới” và “Lời hứa sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam” của Hồ Chí Minh lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc đã là “Mầm mống nội loạn”, đã là “Hạt giống chiến tranh”, ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã mang về gieo trồng trên Đất nước thân yêu của chúng ta! Ngay từ năm 1924!
Thiện chí Hòa bình và Hòa hợp của Dân tộc
Từ xưa đến nay không ai thích chiến tranh như câu “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” dẫn giải. Người cầm binh khiển tướng phải dùng tài trí biện biệt đâu là thượng sách, trung sách, và hạ sách hoặc thất sách để lựa chọn hoặc né tránh. “Bất chiến tự nhiên thành” hoặc là “Công tâm hơn công thành” là kế sách của những bậc du thuyết tài ba ngày xưa lưu truyền đáng được noi theo. Vào những ngày đầu tiên đi tìm Độc lập cho Dân tộc, thiện chí hòa bình hợp tác được xem trọng và đề cao do Cựu hoàng Bảo Đại và vị Thủ tướng đầu tiên của ngài là Trần Trọng Kim. Cựu hoàng đã biểu lộ thiện chí của Ngài như sau (Trích quyển Le Dragon d’Annam, trang 222): “Rất thực tâm liên hiệp với VMCS ngay những ngày đầu để quốc dân được hưởng thái bình”.
Tuy nhiên, ngay những ngày đầu tiên, Cựu hoàng đã thấy sự trí trá xảo quyệt của Hồ Chí Minh trong sự việc Cựu hoàng không ra ứng cử dân biểu Quốc hội mà lại được đắc cử với số phiếu bầu 92% ở tỉnh Thanh Hoá! Với Hồ Chí Minh, sự xảo quyệt lớn trong chính trị như chuyện bầu cử ở Thanh Hoá hay sự dối trá vụn vặt trong cuộc đời thường, “Bác Hồ nhà ta” không thiếu thứ nào! Về chuyện thuốc lá của Bác Hồ, Cựu hoàng kể rằng: “Hồ là kẻ nghiện thuốc lá Mỹ, nhất là thuốc Phillip Morris. Nhưng ở nơi làm việc và tiếp khách, lúc nào Hồ cũng giữ một bao Bastos xanh hay vàng… khiến cho khách khứa cứ tưởng hắn ta sống bình dân, hút thuốc bình dân. Lẽ dĩ nhiên, lúc không có người ngoài quan sát, Hồ chỉ hút Phillip Morris.”
Vào khoảng tháng 7-1945, Thủ tướng Trần Trọng Kim từ Huế ra Hà Nội thương thuyết với Tổng Tư lịnh Quân đoàn 38 của Nhật là Tsuchihashi Yuitsu giữ chức Toàn quyền Đông Dương để thu hồi chủ quyền ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Nam Bộ. Cuộc thương thuyết thành công. Ngay ngày hôm sau, ba thành phố được giao hoàn cho Việt Nam. Còn về Nam Bộ, thì chỉ chờ Thủ tướng Trần Trọng Kim vào Nam hoặc cử một đại diện vào Sài Gòn, người Nhật sẽ làm lễ bàn giao ngay. Vào lúc đó, Hồ Chí Minh chưa về Hà Nội, nhưng đã đưa thủ hạ đánh phá phủ huyện khắp nơi, khiến quân đội Nhật phải bắt giữ rất đông. Nhân dịp ra Bắc này, vị Thủ tướng họ Trần cũng xin Nhật thả những thanh niên theo Việt Minh bị quân đội Nhật giam giữ.
Vào lúc đó, áp lực của VMCS rất mạnh. Trần Trọng Kim muốn biết chủ trương của chúng nên mới bảo Phan Kế Toại tìm cho ông một vài người Việt Minh để bàn chuyện. Phan Kế Toại đưa đến một thanh niên Việt Minh. Rất tiếc Trần Trọng Kim không ghi lại tên tuổi của người nầy, nhưng cuộc đối thoại giữa hai người rất lý thú. Xin trích nguyên văn cuộc nói chuyện được ghi lại trong Một cơn gió bụi, hồi ký chính trị của Thủ tướng Trần Trọng Kim, bút hiệu Lệ Thần:
“Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói:
- Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?”
Người ấy nói:
- Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn Độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.
- Sự mưu cầu cho nước được Độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.
- Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn Độc lập chứ không có hai.
- Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.
- Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia”.
Thủ tướng Trần Trọng Kim thuật tiếp rằng sau đó người thiếu niên ấy đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của “đảng Việt Minh”. Thấy thái độ của người Việt Minh như vậy, biết không lấy nghĩa lý nói chuyện được, ông mới nói:
- Nếu các ông chắc lấy được quyền Độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?
- Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.
- Các ông chắc là các nước Đồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?
- Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm!
- Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.
Người thiếu niên ấy hẳn là một cán bộ cao cấp đã được học tập và thấu hiểu đường lối “Kách mệnh”. Bởi lẽ một tháng sau đó, quả nhiên Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Vận mệnh của Đất nước, than ôi, đã lọt vào tay của nhóm kẻ chủ trương “Dù người trong nước mười phần chết mất chín, cũng sẽ lập một xã hội mới với một phần còn lại, còn hơn với chín phần kia”. Sau ngày 30-4-1975, cuộc Kách mệnh của Hồ Chí Minh thành công, lời nói trên được ứng nghiệm, xã hội mới chỉ gồm có ba triệu đảng viên của Hồ Chủ tịch, Dân tộc với 80 triệu người còn lại thì không được nói, còn bị bịt mắt bịt tai, thì sống cũng như chết! Lời nói của Thủ tướng Trần Trọng Kim vào tháng 7-1945, “Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử”, bây giờ đã là thế kỷ 21, trên 50 năm đã trôi qua, lời nói ấy có còn vang vọng trong lương tâm của ai không?
Những lời tâm huyết của Cựu hoàng trong Chiếu Thoái vị
Người đi tìm chân lý trong lịch sử, đọc lại Chiếu Thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại, mới hiểu tấm lòng cao cả hy sinh cả ngai vàng của Cựu hoàng vì Cựu hoàng có viễn kiến muốn cứu Dân tộc, muốn Dân tộc thoát khỏi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Ngày 25-8-1945, khi trao quyền cho chính phủ Hồ Chí Minh để được làm Công dân Vĩnh Thụy, Cựu hoàng chỉ có ba điều mong ước, đó là Ba điều tâm huyết của Cựu hoàng! Xin Dân tộc hãy đọc kỹ những Lời vàng ngọc trong Chiếu Thoái vị để suy ngẫm và hiểu tấm lòng của Cựu hoàng:
1- Đối với tông miếu và lăng tẩm của liệt thánh, chính phủ mới nên xử trí thế nào cho có sự thể.
2- Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền Độc lập quốc gia, nhưng không đi sát phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết và tỏ rằng chính phủ dân chủ Cộng hòa nước ta đã xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.
3- Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết cả các giai cấp, các đảng phái, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ, giữ vững nền Độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh chia rẽ.
Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng chấm dứt với hàng chữ “Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước Độc lập”. Những lời sau cùng này thật đẹp tợ bông hoa thêu kết vào bức gấm tô điểm cho vị thế của vị Hoàng đế cuối cùng trong sách sử lưu truyền cho đời sau.
Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nhận rõ rằng đối với bản Tuyên ngôn Độc lập do chính Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên đọc, ông còn lếu láo dùng làm chiêu bài để lừa phỉnh Dân tộc thì những yêu cầu chính đáng của Cựu hoàng muốn Chính phủ Dân chủ Cộng hòa của ông xây đắp trên sự đoàn kết để cùng nhau kiến thiết quốc gia, ông nào có coi ra gì! Cảm thương thay cho Cựu hoàng đã hy sinh cả ngai vàng để cứu Dân tộc thoát khỏi vòng chinh chiến mà không được toại nguyện! Cựu hoàng đã giao trứng cho ác rồi! Phong cách hành xử vương đạo không tham quyền cố vị của Cựu hoàng cao cả bao nhiêu, thì tâm địa tranh bá đồ vương theo lối bàng môn tả đạo của HCM lại hèn hạ ty tiện và ác độc bấy nhiêu! Thật đáng buồn cho Dân tộc!
Ngay khi Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng còn chưa ráo mực, thì bộ đội của Hồ Chí Minh mở cuộc tấn công vào căn cứ Nga My, Ninh Bình của đảng Đại Việt Duy dân (ngày 1-9-1945), và trong mười ngày đầu tháng 9-1945, Võ Nguyên Giáp nhân danh Bộ trưởng Nội vụ ký một loạt sắc lịnh giải tán các đảng Đại Việt Quốc gia Xã hội và Đại Việt Quốc dân đảng và bắt giam lãnh đạo Thanh niên Ái Quốc hội vu cáo là Việt gian. Ngày 11 tháng 9 Hoàng Minh Giám, Xử lý Bộ trưởng Nội vụ ký nghị định kiểm soát báo Ngày nay của Quốc dân đảng. Ngày 22 tháng 9 Trần Huy Liệu ra thông cáo áp dụng chế độ kiểm duyệt báo chí, và đến ngày 1 tháng 10, ra thông cáo đặt các cơ sở in ấn dưới quyền kiểm soát của nhà nước, ăn cướp nhà in Ngày Nay của nhóm Tự lực Văn Đoàn. Tất cả là những hành động sát hại và đàn áp những người quốc gia yêu nước chống Pháp, vậy mà ngoài miệng Hồ Chí Minh cứ mãi hô hào: “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết!” Theo dõi mãi hành tung đạo tặc và tâm địa tráo trở của Hồ Chí Minh, theo dõi mãi cũng phát chán!
Công nghiệp hiển hách của Triều đại Nguyễn Phúc
Giờ xin bình tâm hướng về công nghiệp hiển hách của các vua chúa Triều đại Nguyễn Phúc, gồm 9 Chúa và 13 Vua. Khởi từ dinh Ái Tử ở đất Thuận Hóa là mảnh đất đầu tiên Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên vào trấn nhậm (năm 1558), đến chín đời sau là đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (năm 1744), thì lãnh thổ Đàng Trong gồm đến mười hai dinh (từ 1 dinh tăng lên thành 12 dinh), trải dài đến tận Hà Tiên và Cà Mau. Chưa hết, lãnh thổ còn vươn dài ra biển Nam Hải và vịnh Thái Lan với các đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Côn Sơn và Phú Quốc. Đến khi vua Gia Long thắng nhà Nguyễn Tây Sơn, thống nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài thì Đất nước Đại Nam dưới triều đại Nguyễn Phúc rộng lớn nhất kể từ 4000 năm lập quốc. Về viễn kiến của vua Gia Long đối với vấn đề chiến lược, xin trích dẫn bài Quần đảo Hoàng Sa Trường Sa của cựu đại úy Thái Văn A thuộc Bão biển Đệ nhị Hải sư, hiện định cư ở Melbourne (Bài đăng trong đặc san Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân 2002, xuất bản ở Sydney):
“Đến khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế năm 1802, chọn Huế làm kinh đô, Ngài cảm thấy cần bảo vệ cho Đế đô từ phiá đông bằng cách cho hải quân ra chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, đồng thời cho người vẽ lại bản đồ chi tiết quần đảo nầy. Khi sai sứ xin tấn phong ở Bắc Kinh đã cho nộp luôn cả bản đồ vùng Hoàng Sa. Nhà Thanh nhận những tài liệu nầy, đồng thời cũng nhận luôn chủ quyền của nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa”.
Đối với những người Pháp theo giúp vua Gia Long trong công cuộc thống nhứt đất nước như Chaigneau, Vannier và Despiau, thì vua phong làm quan tại triều và ban cho mỗi người 50 lính hầu, tuy đến buổi chầu thì không bắt lạy mà thôi. Dải giang sơn gấm vóc 23 Trấn 4 Doanh dưới triều vua Gia Long, trong thơ văn và tình tự Dân tộc, đã đi vào tâm khảm người Việt thành chuỗi từ thân thương thật đẹp: Dải đất hình cong như shữ S chạy dài từ Ải Nam Quan đến tận Mũi Cà Mau. Học lại lịch sử cho thấu đáo, ta mới biết rằng công cuộc thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài của vua Gia Long để cho sông Gianh không còn là ranh giới ngăn cách Bắc Nam hẳn là cuộc thống nhất thật đẹp trong lịch sử. Và trường nữ Trung học Gia Long của thành phố Sài Gòn không phải đặt theo tên vua Gia Long. Những nhà giáo dục tiền bối ở miền Nam không phải là không cân nhắc khi chọn tên để đặt cho ngôi trường nữ trung học lớn nhất ở Sài Gòn: thực sự tên trường Gia Long là kết tự của “Gia Định và Thăng Long” để biểu dương cho sự thống nhất Đất nước. Vì mang ý nghĩa thật đẹp như thế cho nên tên trường nữ Trung học Gia Long phải được bảo tồn bằng bất cứ giá nào!
Nhắc lại công nghiệp huy hoàng của triều đại Nguyễn Phúc để hiểu Cuộc Thoái vị của Cựu hoàng Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng, là một Quốc sách cứu Dân tộc thật cao cả và đầy ý nghĩa. Vất bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vào sọt rác lịch sử và đọc lại Chiếu Thoái vị, tức là những Lời Tâm huyết của Cựu hoàng, ta hãy đọc lại từng chữ, nghiên cứu lại từng hàng, nghiền ngẫm lại từng câu, ta mới thấy rõ sự phi lý cùng cực của cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh gây ra để đánh Dân tộc. Tác giả Minh Võ phê bình quyển Vision accomplished? The enigma of Ho Chi Minh của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Huyên đã cho biết lập trường của hai vị hoàng thân sau đây (Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp, trang 207):
“Hoàng thân Bửu Hội, nhà bác học duy nhất của Việt Nam lúc ấy, nhân danh hoàng tộc, khuyên Pháp nên điều đình với chính phủ Hồ Chí Minh và hoàng thân Ưng Úy, thân sinh của nhà bác học Bửu Hội, bỏ thành phố ra vùng kháng chiến với Việt Minh.”
Hoàng hậu Nam Phương dứt khoát không chịu tiếp các vị đặc sứ do Đô đốc Thierry d’Argenlieu cử đến, lúc đó d’Argenlieu giữ chức Cao ủy Đông Dương thay thế chức Toàn quyền thời Pháp thuộc. Ngay cả vị Khâm sứ Tòa thánh đến khẩn khoản thỉnh cầu hoàng hậu đổi ý, Nam Phương hoàng hậu không nói một lời mà lại đến chiếc dương cầm cử bài Tiến Quân ca của Văn Cao lúc đó là bản quốc thiều của Việt Minh. Bằng một phong cách thật đẹp và duyên dáng, vị Hoàng hậu cuối cùng của Đất Việt biểu hiện tấm lòng vâng thuận theo Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng, nhất định không chấp nhận đưa hoàng tử Bảo Long lên ngôi hoàng đế và Hoàng hậu giữ quyền Nhiếp chính. Đó là đề nghị của d’Argenlieu đưa ra (Trích bài phê bình quyển The Struggle for Indo-china của Ellen Hammer do tác giả Minh Võ, trang 323, sđd).
Lập trường tán thành chính phủ Dân chủ Cộng hòa và ủng hộ Hồ Chí Minh của Nam Phương hoàng hậu và của các hoàng thân Bửu Hội và cha là Ưng Úy thật quang minh chánh đại. Lập trường của các vị trong hoàng tộc đối với Hồ Chí Minh thuận lợi như vậy, thế thì Hồ Chí Minh ứng xử ra sao? Ông đã tàn ác ra lịnh ám sát hai người thân tín của Cựu hoàng. Đó là vị Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Bắc Việt Bác sĩ Trương Đình Tri và Khâm sai Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm. Hai người nầy bị giết cách nhau không đầy 24 giờ, một ở trong Nam, một ở ngoài Bắc! Hồ Chí Minh nhìn vào Dân tộc, thấy ai ai cũng là kẻ thù của mình!
Bây giờ, rà soát lại lịch sử, ta tìm ra chân lý là chính Hồ Chí Minh là người đã gieo trồng mầm mống nội loạn và hạt giống chiến tranh ngay từ năm 1924, cả mười mấy năm trước khi nhạc sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn chào đời! Nào ai có biết! Cuộc chiến tranh Việt Nam đã được đặt cho rất nhiều tên: nào là cuộc chiến Quốc Cộng, nào là cuộc chiến Giải phóng Dân tộc, nào là cuộc thánh chiến Đánh Mỹ cứu Nước, cuộc chiến tranh Đông Dương lần Thứ nhất, cuộc chiến tranh Đông Dương lần Thứ hai, cuộc Chiến tranh Mười ngàn ngày, sử gia Vũ Ngự Chiêu dùng một từ Hán Việt là Tam Thập Niên Chiến (1945-1975)... biết bao nhiêu là tên. Thêm một tên gần sát với thực trạng là cuộc chiến tranh Đông Dương của Hà Nội. Vâng, đúng là “của Hà Nội”, do Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội phát động để đánh miền Nam. Trong bài bàn về Quân lực Việt Nam Cộng hòa: 1968-1975, sử gia Bill Laurie, một chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam đã nhận xét như vậy. Nhưng nếu xét về quan điểm Hồ Chí Minh là kẻ quyết tình gieo trồng vun xới hạt giống chiến tranh, và Dân tộc Việt Nam từ Bắc chí Nam là nạn nhân phải gánh chịu, chúng ta phải trả chân lý lại cho lịch sử, cuộc chiến tranh phải được định lại cho đúng chính danh là: CUỘC CHIẾN TRANH CỦA HỒ CHÍ MINH ĐÁNH DÂN TỘC
Hồ Chí Minh nâng bi Stalin
Ngay sau khi đọc Bản Tuyên ngôn tuyên truyền mỵ dân khoác lác, Hồ Chí Minh đã xách động dân chúng Hà Nội không ngừng. Có một cuộc biểu tình thật lạ lùng do nhận xét tinh tế và ghi chép trung thực của nhân chứng Bùi Diễm, lúc đó là một đảng viên Đại Việt thân cận với đảng trưởng Trương Tử Anh. Trong quyển Gọng kìm Lịch sử, tác giả Bùi Diễm tường thuật (trang 65):
“Đường phố Hà Nội đầy rẫy những biểu ngữ đủ loại và từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến các công trường, tạo cho thành phố một quang cảnh ồn ào tấp nập. Điển hình nhất về phương pháp đấu tranh này, là một cuộc biểu tình lạ lùng mà tôi còn nhớ mãi về sau này, đó là cuộc biểu tình chống tướng độc tài Franco ở Tây Ban Nha.”
Nhân đây, xin có lời tri ân tác giả Bùi Diễm đã ghi chép lại một chi tiết rất nhỏ của lịch sử, nhỏ nhưng rất quan trọng vì đã giúp các thế hệ sau hiểu rõ thâm ý và tâm địa của Hồ Chí Minh vào lúc đó. Xin mời quý bạn đọc tiếp.
Biểu tình chống tướng độc tài Franco của Tây Ban Nha! Kỳ lạ chưa? Vào lúc đó, ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, hô hào dân chúng biểu tình chống thực dân Pháp thì mới hợp tình hợp lý chớ tại sao lại chống tướng Franco của Tây Ban Nha? Tại sao? Chống tướng Franco để làm gì? Tướng Franco đã làm gì ở Âu Châu thì mặc kệ ông, mắc mớ gì đến Việt Nam mà ta phải biểu tình chống đối! Theo nhân chứng Bùi Diễm thì trong số hàng ngàn người Việt ở Hà Nội đả đảo Franco hôm đó, “chưa chắc đa số biết Franco là ai”! Nhưng Hồ Chí Minh thì biết Franco rất rõ. Có một giai đoạn trong lịch sử châu Âu, khi Stalin và Hitler liên minh để chia nhau xâu xé nước Ba Lan, như hai người bạn cùng chia nhau ăn một cái bánh, thì Stalin xem Hitler là bạn, do đó cũng xem Franco là bạn vì Franco có gởi Sư Đoàn xanh (Blue Division) sang trợ lực quân Đức Quốc xã và một số thợ thuyền sang lao động ở các xưởng máy của Đức. Nhưng đến khi Đức đem quân đánh Liên Xô, Stalin ngả về phe Đồng minh Anh Pháp Mỹ để chống cự Đức và để nhận viện trợ dồi dào từ Mỹ quốc, thì Hitler và Franco đã bị chuyển từ bạn sang thù rồi. Vì Hitler và Franco là kẻ thù của Stalin, Hồ Chí Minh biết thế, nên để lấy lòng Stalin, Hồ Chí Minh mới xua dân Hà Nội biểu tình đả đảo Franco, chỉ chống tướng Franco mà thôi! Tại sao lại không chống luôn cả Hitler? Tại sao Hồ Chí Minh chỉ lựa con chốt là Franco mà bỏ con xe Hitler? Khi chúng ta đặt được nghi vấn như vậy, tức là chúng ta đã tìm ra câu trả lời: vào lúc đó lòng dân căm thù và chống Thực dân Pháp dâng lên thật cao, vì Hitler là kẻ thù đã xâm lăng nước Pháp, chống Hitler hóa ra cùng phe với nước Pháp hay sao, cho nên Hồ Chí Minh phải bỏ Hitler ra khỏi danh sách mà chỉ đạo diễn cuộc biểu tình chống một mình tướng Franco mà thôi! Nếu con người là vốn quý như Hồ Chí Minh thường nói, thì phải xử dụng vốn quý để phụng sự cho Dân tộc và Tổ quốc. Ngay trong những ngày đầu của cuộc Cách mạng Mùa thu 1945, Hồ Chí Minh đã xử dụng vốn quý bừa bãi nhưng cân nhấc thật tinh vi để có lợi cho bản thân mình. Bắt dân Hà Nội biểu tình chống Tướng Franco chỉ là để nâng bi Stalin, điều mà Dân tộc Việt Nam không cần phải làm. Cho nên mãi về sau, thật quá tội tình cho vốn quý của Dân tộc! Hồ Chí Minh đã xử dụng biết bao nhiêu xương máu của Dân tộc để mang Lá Cờ đỏ của Lênin đi khắp nơi, để phục vụ cho Stalin và đảng Staliniens, để xây dựng đảng Cộng sản, và để xây lăng cho mình, trong khi lăng vua chúa triều đại Nguyễn Phúc thì miệt thị là “Mả vua”! Thật quá tội nghiệp cho Đất nước và biết bao nhiêu thế hệ bà mẹ Việt phải chịu cảnh tre khóc măng!
Bây giờ, chúng ta thử xét Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Chiến Tranh lạnh trên toàn thế giới để hiểu thêm về vai tuồng của Hồ Chí Minh. Khái niệm Chiến Tranh lạnh là cách nói để diễn tả tình trạng căng thẳng giữa hai khối cường quốc có vũ khí nguyên tử, một bên là khối tự do Anh Pháp Mỹ, bên kia là Liên Xô. Tất cả các cường quốc ấy đều không có can đảm “đối đầu nóng” với nhau để có thể gây ra thảm họa Thế chiến Thứ ba tức là Chiến tranh Nguyên tử. Thế nhưng Liên Xô là Đế quốc Thực dân đỏ đi ngược chiều lịch sử với tham vọng bành trướng khắp thế giới. Đó là mầm mống của Chiến Tranh lạnh được tác giả Đào Trường Phúc, trong quyển Những điểm nóng trên thế giới sau Chiến Tranh lạnh, dẫn giải như sau (trang 7):
“Những nhà phân tích chính trị đều có chung nhận định rằng mầm mống của Chiến tranh lạnh đã phát lộ ngay từ khi trận Đại chiến Thứ hai chưa kết liễu. Đằng sau những cái bắt tay thân thiện trong Hội nghị Yalta (tháng 2-1945) giữa Winston Churchill, Franklin Roosevelt và Joseph Stalin, đã là mối xung khắc căn bản giữa nguyên tắc Dân tộc Tự quyết (mà các nhân vật lãnh đạo khối Tây Phương đề ra) và ý đồ áp đặt chủ nghĩa Cộng sản trên toàn cõi Đông Âu của nhà lãnh tụ Liên bang Xô viết.”
Về thời điểm chính xác khi Chiến tranh lạnh khởi đầu thì không nhất trí. Tùy theo cách nhìn của từng người, Chiến Tranh lạnh được xem như mở màn kể từ lúc Ba Lan trở thành quốc gia Cộng sản chư hầu đầu tiên của Liên Xô, hoặc kể từ lúc Liên Xô thiết lập Bức Màn sắt cắt đôi Âu Châu, hoặc từ lúc Liên Xô phong tỏa Tây Bá Linh khiến cho Mỹ phải thiết lập cầu không vận để tiếp tế cho dân chúng kẹt trong thành phố đó, hoặc khi khối NATO của Tây Âu ra đời để đối đầu với khối Varsovie của Cộng sản Đông Âu. Bây giờ ta thử xem chiến tranh lạnh và chiến tranh nóng phát hiện như thế nào trên đất Việt. Ngay từ năm 1924, lúc Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Ái Quốc sang Mạc Tư Khoa đầu quân dưới trướng của Stalin để trở thành Quốc tế ủy Kominternchik, thì xem như Stalin đã có một tên lính thật tài ba và trung thành để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh nóng ở Việt Nam sau nầy. Nói cách khác, khi Chiến Tranh lạnh thế giới chưa mở màn, thì Hồ Chí Minh đã tình nguyện nhập ngũ vào Bộ đội Cộng sản Quốc tế rồi. Stalin đã chuẩn bị thật chu đáo việc đào tạo tên lính Hồ Chí Minh để đánh Dân tộc Việt Nam. Đến tháng 6 năm 1925, tên lính Hồ Chí Minh đã bắn được phát đạn đầu tiên vào Dân tộc!
Phát đại bác đầu tiên của Hồ Chí Minh bắn vào Dân tộc
Đó là đề tài vụ bán Phan Bội Châu cho Pháp, được tác giả Minh Võ Vũ Đức Minh tường thuật trong chương 45 của quyển Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp (do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ở Virginia, Hoa Kỳ), một quyển sách tiếng Việt viết về Hồ Chí Minh đầy đủ nhất từ xưa đến nay. Xin mở dấu ngoặc để nhắc lại lịch sử: vào ngày 1-9-1847, tướng hải quân Pháp là Rigault de Genouilly chỉ huy hạm đội gồm 14 chiến thuyền Pháp và 1 tàu Tây Ban Nha vào bắn phá cửa Đà Nẵng. Đó là lần đầu tiên hải quân Pháp nổ súng trên đất Việt để mở màn cho nền Pháp thuộc dài cả trăm năm. Đó là phát đại bác đầu tiên của Pháp bắn vào Dân tộc!
Trong suốt thời Pháp thuộc, biết bao nhiêu nhà ái quốc nổi lên chống ngoại xâm, từ vua đến quan, những bậc đỗ đạt khoa bảng, đến những nông dân, những Nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngay đến những người chuyên trồng trầu vô danh ở đất Hốc Môn Bà Điểm cũng đã đi vào lịch sử với tên Cuộc Kháng chiến 18 thôn vườn trầu, tất cả đều chung một lòng, không phân biệt giai cấp sang hèn, giàu nghèo, vua quan hoặc thứ dân nơi đồng nội. Trong danh sánh dài những tên tuổi lừng danh ái quốc đó, nổi bật tên Sào Nam Phan Bội Châu. Từ lúc tổ chức Sĩ tử Cần vương đội năm 1885, mà cụ làm Phó đội lúc 17 tuổi, đến lúc đậu Cử nhân trường Nghệ (cụ đỗ Thủ khoa) năm 33 tuổi, cụ không ra làm quan mà đi khắp Trung Nam Bắc tìm những người yêu nước cùng một chí hướng với mình. Cụ tôn Kỳ Ngoại hầu Cường Để lên làm Hội chủ, sáng lập trường Đông kinh Nghĩa thục để nâng cao dân trí, thành lập Phong trào Đông du để đưa thanh niên sang Nhật du học. Phong trào Đông du phát triển rần rộ khắp ba kỳ, khắp nơi hưởng ứng, có lúc du học sinh lên đến 200 người. Đến khi Pháp lo sợ mới điều đình với chính phủ Nhật yêu cầu giải tán số du học sinh đó, phong trào mới lụn bại, cụ Phan phải dời địa bàn hoạt động từ Nhật sang Tàu.
Phong trào Đông Du lụn bại, nhưng lòng yêu nước của cụ Phan vẫn sáng ngời và cụ vẫn là tượng trưng cho tinh thần kháng chiến chống Pháp ở hải ngoại. Thanh niên yêu nước khắp ba kỳ tìm cách xuất dương để làm cách mạng đều biết tiếng cụ và tìm đến cụ để đầu quân. Uy thế chính trị của cụ vẫn vững vàng, Hồ Chí Minh biết thế, cho nên phải triệt hạ cụ bằng mọi giá. Từ Mạc Tư Khoa sang Quảng Châu “làm việc” khoảng tháng 12-1924, thì chỉ hơn 7 tháng sau, Hồ Chí Minh đã cho nội tuyến xâm nhập vào Tâm Tâm xã, một tổ chức do cụ Phan thành lập. Nắm được quyền chủ động Tâm Tâm xã, Hồ Chí Minh liền đổi tên thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Đồng thời, Hồ Chí Minh âm mưu với Lâm Đức Thụ mật báo cho Pháp biết lộ trình của cụ Phan, do đó cụ Phan bị Pháp bắt ở Thượng Hải, trong tô giới của Pháp. Lúc đó là vào khoảng tháng 6-1925.
Chỉ trong vòng 7 tháng có mặt ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của QT3 giao phó. Vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh được hai điều lợi. Điều lợi thứ nhất là được Pháp thưởng 100 ngàn đồng bạc Đông Dương (số tiền đó lớn vô cùng, theo Hoàng Văn Chí trong quyển Từ Thực dân đến Cộng sản thì vào lúc đó một con trâu chỉ trị giá có 5 đồng). Điều thuận lợi thứ hai là Hồ Chí Minh đã loại được một địch thủ lợi hại. Không còn sự hiện diện của cụ Phan Bội Châu, chính trường ở Hoa Nam hoàn toàn nằm trong tay tên Quốc tế ủy lão luyện là Hồ Chí Minh điều động, và những thanh niên yêu nước chân ướt chân ráo vừa mới vượt biên giới Hoa Việt tất cả đều lọt vào tay Hồ Chí Minh. Phiá Quốc gia Dân tộc bị đặt vào thế hạ phong chỉ chờ ngày thua thiệt. Bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh đã bắn được phát đại bác đầu tiên vào Dân tộc! Giai đoạn lạnh của Cuộc chiến đánh Dân tộc có thể xem như bắt đầu từ đấy!
Lâm Đức Thụ là lái buôn người
Nghề làm Việt gian Cộng sản bắt tay hợp tác với Thực dân Pháp đã đem lại một mối lợi quá lớn, chỉ trong một dịch vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh thâu đoạt được 100 ngàn đồng bạc Đông Dương mà khỏi cần xuất vốn, cho nên Bác ta nào có chịu ngừng ở đấy. Theo tác giả Hoàng Văn Chí, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục hợp tác với Lâm Đức Thụ, tên Việt gian có biệt danh là lái buôn người trong dịch vụ này (Trích quyển Từ Thực dân đến Cộng sản, trang 39):
“Việc buôn bán cách mạng này tiếp tục trong nhiều năm. Mỗi thanh niên Quang Phục hội (tổ chức nầy do cụ Phan Bội Châu thành lập để đưa người xuất ngoại) đưa sang Tàu phải nộp cho Lâm Đức Thụ ở Hồng Kông hoặc cho đại diện của hắn ở Quảng Châu hai bức hình, nói là để lập hồ sơ xin vào trường Hoàng Phố. Đến ngày những sinh viên này tốt nghiệp, sẵn sàng lên đường về nước để hoạt động cách mạng thì số phận mỗi người đã được định sẵn. Những người đã nghe theo tuyên truyền Cộng sản và đã gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội thì được an toàn đưa về quê hương để hoạt động bí mật. Còn những người vẫn khăng khăng giữ vững lập trường quốc gia thì hễ qua khỏi biên giới là bị mật thám đón bắt, vì theo ám hiệu của Cộng sản, Lâm Đức Thụ trao cho lãnh sự Pháp ở Hồng Kông một tấm ảnh của những người mà Cộng sản không thu phục được. Những thanh niên này bị bắt và bị đưa dần vào tù, khiến phong trào quốc gia ở Việt Nam mất liên lạc với trụ sở ở Quảng Châu. Những người trong nước phái ra liên lạc với bên ngoài cũng hoặc bị Cộng sản thu hút, hoặc bị Pháp bắt vào tù. Tình trạng cứ tiếp diễn đến nỗi những sinh viên tốt nghiệp Hoàng Phố mà không chịu theo Cộng sản thường không giám về nước, và chỉ còn cách là gia nhập quân đội Quốc dân Đảng Tàu. Dần dà phong trào quốc gia mỗi ngày mỗi suy sụp và phong trào CS mỗi ngày một bành trướng.”
Hồ Chí Minh, kẻ chủ mưu buôn người
Theo tác giả Hoàng Văn Chí, Lâm Đức Thụ là lái buôn người, nhưng xét cho kỹ thì hắn chỉ là tòng phạm. Hồ Chí Minh mới chính là kẻ chủ mưu buôn người. Bởi lẽ chính Hồ Chí Minh là người quyết định ai theo Cộng sản để thành “Vốn quý của Bác” được giữ lại, và ai không theo thì bị bán cho Pháp, Bác mới ra lịnh cho Lâm Đức Thụ thi hành. Đúng là Hồ Chí Minh đã luyện tập tuyệt kỹ môn pháp Ném đá giấu tay. Khi thực dân Pháp bằng lòng bỏ tiền mua mạng những người Việt Nam yêu nước và khi Hồ Chí Minh sẵn sàng bán để loại trừ địch thủ của mình, cán cân cung cầu đã được thiết lập, công cuộc buôn bán hẳn rất sòng phẳng, nghề buôn người không cần vốn của Hồ Chí Minh hẳn phát đạt nhưng hàng ngũ Quốc gia Dân tộc thì càng ngày càng cạn kiệt. Biết bao nhiêu thanh niên yêu nước đã bị Hồ Chí Minh hãm hại, ngay khi Hồ Chí Minh còn ở trên đất Tàu chưa về nước hoạt động. Ngày nay, ai là người thấu hiểu và khóc thương cho Quốc gia Dân tộc đây!?
Hồ Chí Minh nâng bi Lênin
Để hiểu rõ chân tướng của Hồ Chí Minh vào lúc nầy, lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, không gì bằng xem lại những lời Hồ Chí Minh tán tụng lãnh tụ Lênin và phê bình nhà ái quốc Phan Bội Châu. Khi Lênin chết, Hồ Chí Minh viết trên báo Pravda ngày 27-1-1924 như sau: “Lênin đã mất. Tin này đến với mọi người như sét đánh ngang tay, truyền đi khắp các bình nguyên ở châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở châu Á.” Và ông kết thúc bài khóc Lênin: “Khi còn sống, Người là người cha, người thầy, người đồng chí và là vị cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.”
Trong truyền thống DânTộc, QUÂN SƯ PHỤ là những bậc được người Việt chúng ta tỏ lòng kính trọng. Trong lời tán tụng Lênin trên đây, Hồ Chí Minh đã tôn vinh Lênin là SƯ tức là thầy và PHỤ tức là cha rồi, chỉ thiếu điều quỳ lạy tung hô Lênin là VUA mà thôi! Thầy nào trò nấy, Hồ Chí Minh phải bản lãnh về Nghệ thuật nâng bi như vậy, mới xứng đáng làm thầy của Tố Hữu sau nầy. Hãy xem bài thơ Tố Hữu khóc Stalin 29 năm sau đó: “Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình, thương một, thương Ông thương mười.”
Thật là xứng đào xứng kép, Hồ Chí Minh khóc Lênin và Tố Hữu khóc Stalin, một bầy nâng bi, gây điếm nhục cho Hồn thiêng Sông núi! Hồ Chí Minh xưng tụng Lênin như vậy, nhưng với nhà ái quốc Phan Bội Châu, người được Dân tộc tôn kính, thì Hồ Chí Minh đã dùng ẩn danh Trần Dân Tiên để phê bình rằng phương cách cứu nước của cụ Phan là “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau vì dựa vào Nhật”, hàm ý đó là hạ sách hoặc thất sách, không đáng noi theo.
Đúc kết những sự việc kể trên, người đi tìm chân lý trong lịch sử, có thể vẽ lại bức tranh khá hoàn chỉnh về Hồ Chí Minh: đó là tên Cộng sản thuộc hàng quốc tế, tức là Quốc tế ủy, được tài trợ dồi dào từ Đệ tam Quốc tế có hỗn danh là Thực dân đỏ, âm mưu bắt tay với thực dân Pháp là Thực dân trắng để bán cụ Phan Bội Châu, vừa loại được địch thủ vừa nhận được tiền thưởng của Pháp, rồi tiếp tục bán cho Pháp những sinh viên yêu nước tốt nghiệp trường Hoàng Phố mà không theo Cộng sản để làm suy yếu hàng ngũ Quốc gia Dân tộc. Tất cả những sự việc kể trên đưa Dân tộc vào vòng nô lệ Cộng sản thì tệ hại cho Đất nước nào có kém gì những tràng đại bác của Rigault de Genouilly bắn phá cửa Đà Nẵng đâu. Bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh đã bắn được phát đại bác đầu tiên vào Dân tộc và do đó Cuộc Chiến tranh Của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc thực sự đã mở màn vào tháng 6 năm 1925 khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị Pháp bắt an trí ở Huế để trở thành Ông già Bến Ngự, nhường chính trường ở Hoa Nam cho Hồ Chí Minh tung hoành.
Vài điều viết thêm về cụ Phan Bội Châu. Vào ngày 15-9-1928, tổng bộ Việt Nam Quốc dân đảng họp bàn về đề tài thống nhất các lực lượng quốc gia và quyết định cử người vào Huế mời cụ Phan Bội Châu giữ chức Chủ tịch danh dự của đảng. Cụ Phan đã vui lòng nhận là một đảng viên VNQDĐ và nói: “Tôi tuy già yếu thật, nhưng nếu còn có thể giúp ích được việc gì cho tổ quốc, thì tôi nguyện đem hết sức mình phục tòng mệnh lệnh của đảng.” Sự tham gia của nhà đại ái quốc lão thành Phan Bội Châu đã làm tăng uy tín cho VNQDĐ rất nhiều và các đảng viên thanh niên vô cùng phấn khởi.
Đảng phải trả lời: tại sao lại Phản Bội Châu?
Trong khi cụ Phan Bội Châu, mặc dầu bị an trí ở Huế, vẫn hết sức hòa mình vào phong trào kháng chiến chống Pháp của Dân tộc, thì Cộng sản lúc đó còn hoạt động bí mật mà đã tìm đủ phương cách và cơ hội để hạ uy tín của cụ. Có câu chuyện Tại sao lại Phản Bội Châu thật lý thú sau đây. Chuyện do tác giả Thu Tâm Phạm Thị Bách, người cháu kêu Nguyễn Thiện Thuật bằng ông cậu, thuật thoáng qua trong quyển hồi ký ngắn Những ngày xa xưa ấy. Lúc Thu Tâm viết hồi ký thì bà đã 80 tuổi. Nhớ lại thuở thanh xuân vào thập niên 30, bà từng là tình nhân của Trần Huy Liệu. Đáng lý ra với tình yêu sâu đậm của bà đối với Trần Huy Liệu, bà có thể là vợ lẻ của ông theo xã hội ở miền Bắc thuở đó còn chấp nhận tục đa thê. Nhưng vì lúc đó Đảng đang lo tranh thủ nhân tâm, lại thêm chuyện trâu cột ghét trâu ăn, nên mới chống hủ hóa, và ra lịnh ông phải xa bà. Trong lần hẹn hò sau cùng năm 1939 ở thành phố Huế thơ mộng, Thu Tâm muốn đi thăm cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, nhưng Trần Huy Liệu nhất định không cho mà không giải thích tại sao, xin đi thăm một mình thì Trần Huy Liệu cũng nhất định không chịu. Vỡ lẽ ra thì vào lúc đó tờ báo Tin tức của đảng Cộng sản có đăng bài với tựa thật lớn là Phản Bội Châu tường thuật sự việc thống sứ Chatel viếng thăm cụ Phan Bội Châu: “Viên thống sứ Pháp dường như có biếu cụ Phan một bó hoa và lúc ra về hai người có bắt tay từ giã”. Câu chuyện chỉ có vậy. Chỉ vì cụ bắt tay viên thống sứ là quan thuộc địa theo phép xã giao Tây phương mà không chắp tay vái chào theo cung cách lễ giáo Á Đông, cho nên mới bị báo Tin tức của đảng mạ lỵ là Phản Bội Châu (Trích Những ngày xa xưa ấy, tác giả Thu Tâm, trang 61). Đảng Cộng sản thì luôn luôn bới lông tìm vết và chuyên nghề mạ lỵ vu khống.
Nhắc lại lịch sử thì phải nhắc cho trọn vẹn. Ngày 19-5-1946 ở Hà Nội, Hồ Chí Minh đón tiếp phái đoàn của Pháp do Đô đốc d’Argenlieu hướng dẫn. Ngày lịch sử đó, Hồ Chí Minh ngụy nhận là ngày sinh nhật của mình, để cho “Nhân dân” treo cờ xí khắp Hà Nội mừng sinh nhật “Bác”, nhưng thật ra chỉ để đón tiếp d’Argenlieu cho long trọng. Học giả Hoàng Xuân Hãn có mặt trong giây phút Hồ Chủ tịch gặp Đô đốc Cao ủy Pháp và viết lại như sau (Trích quyển Một vài kí vãng về Hội nghị Đà Lạt, trang 186): “Tôi theo Cụ trong phòng khách đi ra cửa. Xe Đô đốc dừng dưới thang cấp trước dinh. Đô đốc lên khỏi bực thang. Chủ tịch tiến nhanh nhẹn ra, ôm lấy Đô đốc mà hôn má; rồi bắt tay những vị tùy tùng. Cụ giới thiệu tôi, rồi chủ khách vào phòng khách uống trà, nói chuyện tươi cười.”
Dân tộc có thấy không, Hoàng Xuân Hãn đã ghi vào lịch sử: Hồ Chí Minh ôm Cao ủy Đô đốc d’Argenlieu và hôn vào má! Ngụy nhận ngày 19-5 là ngày sinh nhật của mình để “Nhân dân” treo cờ xí với chủ đích gian xảo là để đón tiếp Cao ủy d’Argenlieu của Pháp cho được long trọng, chuyện trí trá đó Dân tộc có thể gắng gượng thông qua. Nhưng đến việc ôm hôn vào má d’Argenlieu, chào theo kiểu Liên Xô, thì chắc chắn Dân tộc phải nghiêm khắc mà “đánh rớt Bác” chiếu theo khuôn phép lễ giáo cổ truyền Á đông. Cụ Phan Bội Châu bị mạ lỵ là “Phản Bội Châu” chỉ vì cụ đã bắt tay với khâm sứ Chatel theo phép xã giao Tây phương. Còn Hồ Chí Minh ôm d’Argenlieu và hôn vào má thì sao? Nhất là 2 người chẳng phải bạn bè gì cả và mới gặp nhau lần đầu! Xin miễn bàn vì có nhiều sự việc còn nhơ nhuốc hơn thế nữa! Dân tộc chỉ xin nhắc lại cho Đảng đừng quên rằng Hồ Chí Minh đã có lần bắt tay với mật thám Pháp, việc bắt tay nầy nhơ nhuốc vô cùng vì Bác đã hợp tác và điềm chỉ cho Pháp bắt nhà ái quốc Phan Bội Châu để lãnh thưởng!? Nếu Đảng cho rằng đó là những chuyện nhơ nhuốc đáng phỉ nhổ thì Đảng hãy chửi vị Chủ tịch đảng của mình một trận xem sao.
Chợt đến chiến dịch CCRĐ, trong khi Hồ Chí Minh chễm chệ ở Bắc Bộ Phủ, thì đảng của ông cũng không tha cụ Phan Bội Châu, mặc dù lúc đó cụ đã qua đời 15 năm trước. Giáo sư Nguyễn Ngọc Phách, sưu tầm những tệ trạng đốn mạt của chế độ Hồ Chí Minh trong quyển Việt sử đương đại, đã cho chúng ta biết hành vi cực kỳ phi nhân, vô đạo của đội CCRĐ của Hồ Chí Minh gởi đến quê cụ là làng Đông Liệt, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An như sau (trang 222 sđd):
“Theo ông Phan Thiện Cơ, cháu đích tôn nhà đại cách mạng họ Phan, lúc đó mồ yên mả đẹp được 15 năm, cán bộ CCRĐ đã tuyên án cụ Phan là một “địa chủ ác ôn”, tịch thu từ đường, và đốt hình nộm cụ. Trước khi phóng hỏa, chúng còn bôi phân vào mặt hình nộm theo đúng lời dạy của Mao Trạch Đông “trí thức không bằng cục phân”.
Đừng nghe những gì Hồ Chí Minh nói và viết, mà hãy nhìn những gì Hồ Chí Minh làm, xin Dân tộc ghi nhớ kỹ như vậy. Chủ mưu bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp vào tháng 6-1925, thì 3 tháng sau, trong báo Le Paria (Người Cùng Khổ số 36-37 tháng 9-10/1925), Nguyễn Ái Quốc (tức là Hồ Chí Minh) đã viết: “Phan Bội Châu, bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì Độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng.”
Chi tiết này được tác giả Đỗ Thông Minh và nhóm học giả ở Nhật sưu tầm và viết trong quyển Kỷ niệm 100 năm Phong trào Đông Du 1905-2005 (trang 139). Cũng trong quyển sách trên, ta đọc được dòng chữ đáng u buồn cho Dân tộc (trang 240): “Thế mà cháu, chắt của cụ sau này có lúc cũng bị nhà cầm quyền Cộng sản đối xử phân biệt. Chắt của cụ đậu vào đại học Huế nhưng bị loại, sau nhờ một số người vận động mới được vào học.”
Than ôi! Nếu Đảng còn cầm quyền, thì không biết người chắt của cụ Phan Bội Châu sau khi tốt nghiệp đại học có được Đảng cho một chỗ làm để kiếm cơm hay không?! Dân tộc đã khóc cho số phận hẩm hiu của mình, Đảng có nghe không? Đảng có biết không?
Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ
Trong ngày lễ Lao động 1-5-1924 tại Thủ đô Mạc Tư Khoa, với tư cách là một ủy viên trong 11 người của ban chấp hành Quốc tế Nông dân, Hồ Chí Minh được đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc tế Cộng sản. Sáu năm sau, cũng đúng vào ngày lễ Lao động 1-5-1930, ở trên đất Việt, bùng phát nhiều cuộc nổi dậy của nông dân ở khắp nơi nhưng mãnh liệt nhất ở vùng Nghệ An Hà Tĩnh. Hồ Chí Minh lúc đó là Nguyễn Ái Quốc vội vã trình báo với Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Nông dân (tháng 11-1930): “Hiện nay ở một số Làng đỏ, Xô viết Nông dân đã được thành lập.”
Do đó mới có tên phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Phong trào được phát động với khẩu hiệu Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ. Nhìn vào khẩu hiệu, ta thấy sát khí đằng đằng bốc lên từ lòng hận thù của nông dân đối với toàn thể Dân tộc. Nông dân bị đầu độc phải đoàn kết đứng lên và dùng bạo lực để trừng trị bốn thành phần thù địch là trí thức, phú nông, địa chủ, và kỳ hào trong vùng. Họ bị khích động phải đào tận gốc, trốc tận rễ, tức là phải tàn sát cả toàn gia bất kể già trẻ bé lớn của các giai cấp phản động.
Bạo động kéo dài cho đến cuối tháng 4-1931, gây nên thảm cảnh chém giết tàn bạo, mấy trăm địa chủ ở Nghệ Tĩnh bị sát hại, làm sụp đổ chính quyền địa phương ở 9 huyện lỵ và Đông Dương Cộng sản đảng đã tổ chức các Nông hội Xô viết để thay thế. Thực dân Pháp đàn áp dã man, dùng đến cả phi cơ thả bom tàn sát 2 làng Lộc Châu và Lộc Hải thuộc huyện Nghi Lộc, khiến cho nhiều nông dân bị sát hại.
Với khẩu hiệu đầy sắt máu “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”, những người Cộng sản đầu tiên ở vùng Nghệ Tĩnh đã mang đấu tranh giai cấp vào chính trị, tỏ rõ bộ mặt chuyên chính vô sản độc tài đảng trị phá nát tình Đoàn kết Dân tộc khiến cho đến tận ngày nay, lời kêu gọi Hòa hợp Hòa giải vô vọng của Đảng đối với Dân tộc cũng giống y như câu nói của bọn cướp của giết người rồi lại kêu gọi khổ chủ trở về nhà cũ làm ăn dưới quyền thống trị của chúng để rồi lại bị cướp triền miên bất tận!
Chiếu Cần vương thấm đậm tình Đoàn kết Dân tộc
Sáng Đảng nhưng Mù tình Dân tộc, những người Cộng sản tiên phong đã chủ trương đào tận gốc trốc tận rễ các bậc trí phú địa hào ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh vào năm 1930. Hãy nhìn lại tấm gương trong sáng của lịch sử, 45 năm trước tức là năm 1885, vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương, kêu gọi quốc dân giúp vua để chống quân Pháp xâm lăng, lời chiếu thấm đậm tình Đoàn kết Dân tộc. Người dân từ Thanh Nghệ Tĩnh ra đến Bắc Kỳ và từ Bình Thuận vào đến Nam Kỳ đều nhiệt liệt hưởng ứng Chiếu Cần vương nổi lên chống quân Pháp xâm lăng nào có phân biệt ai là nông dân, ai là trí phú địa hào đâu. Vùng Thanh Nghệ Tĩnh là vùng đáp ứng mạnh nhất lời kêu gọi của vua và tại đó phong trào Cần Vương mạnh nhất. Phong trào Cần Vương mới thật xứng đáng được gọi là cuộc Kháng chiến chống Pháp mà hậu sinh chúng ta ngày nay học được tình yêu nước nồng nàn cùng với bài học Đoàn kết Dân tộc để chống ngoại xâm của tiền nhân tiêu biểu là ông Phan Đình Phùng. Sau đây, xin trích một phần Chiếu Cần Vương của vì Vua Cách mạng Hàm Nghi:
“…Từ vua quan cho đến quân dân không thể cứ cúi đầu, giặc Pháp bảo gì thì cứ nghe nấy. Phàm những ai biết chia lo việc nước, đều hiểu như vậy và đều nghiến răng căm phẫn. Cái lòng ghét giặc Pháp, người Việt Nam ai là chẳng có.
Quốc dân và trăm quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, người trí giúp mưu, người dũng giúp sức, người giàu xuất của để giúp quân nhu, cùng nhau đoàn kết, chẳng ngại gian hiểm, hết thảy mọi người đều hết lòng, hết sức cùng Trẫm chuyển loạn ra trị, chuyển nguy thành an, thu lại đất đai, khôi phục lại bờ cõi…”
Khi ta đem Xô viết Nghệ Tĩnh đậm nét đấu tranh giai cấp vô nhân bất nghĩa đối chiếu với Phong trào Cần vương nồng ấm tình Dân tộc và nghĩa Đoàn kết Đồng bào để ủng hộ nhà vua bảo vệ Đất nước, chúng ta mới nhận rõ chính tà đôi ngả tương phân rõ rệt. Là người Việt, ai cũng biết câu vè dân gian Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ. Câu vè đọc lên nghe vui tai lạ, sĩ và nông thay phiên nhau đứng nhất nhì, nào có ai hơn ai đâu mà phải bận tâm tranh dành. Nếu không làm sĩ được thì theo nông, cũng có sao đâu, như trong ca dao đã nói Văn chương phú lục chẳng hay - Trở về làm ruộng cấy cày cho xong. Ta cũng thường nói Sĩ Nông Công Thương, tức là Thương đứng chót, nhưng hãy xét lại vì Phi thương thì bất phú. Tóm lại, người Việt chúng ta gọi nhau là Đồng bào, chúng ta là Đồng bào với nhau, có truyền thuyết Một mẹ trăm con, và trong ngôn ngữ chan hòa thân mến thương yêu: Lá lành đùm lá rách - Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ - Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy cùng khác giống nhưng chung một giàn - Nước kia còn quyện nên đồi, huống chi ta chẳng tài bồi lấy nhau - Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng... Trong truyền thống Dân tộc đẹp như vậy, chúng ta quyết không chấp nhận sách lược Đấu tranh Giai cấp do Hồ Chí Minh du nhập từ Nga Tàu, học được từ Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông. Hồ Chí Minh đã nhẫn tâm áp dụng những sách lược giết hại đồng bào như vậy, thật đúng là kẻ thù của Dân tộc. Đúng! Hồ Chí Minh là kẻ thù của Dân tộc! Nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh chỉ là điềm triệu khởi đầu như tiếng kêu của loài chim báo tử, chỉ là “một cú đánh thử” như một tác giả đã ghi. Đến 20 năm sau vào thập niên 50, Cải cách Ruộng đất mới thật sự là cú đánh thật, là Đại Thanh trừng biến miền đất phương Bắc của VN thành Killing Field khổng lồ sát hại hàng mấy trăm ngàn người!
Không Tự do hơn, có quý gì Độc lập!
Câu nói Không có gì quý hơn Độc lập Tự do thường được ca ngợi là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh. Trong dân gian, cũng với 9 chữ vĩ đại của Bác, câu nói được sắp xếp lại thành câu vè Không Tự do hơn, có quý gì Độc lập. Câu vè của dân gian nhằm chống đối và đả phá tư tưởng vĩ đại của Bác. Trớ trêu thay, cả hai câu đều được truyền tụng, mỗi câu một cách. Nghe Bác Hồ là Đệ nhất Việt cộng Kominternchik nói Không có gì quý hơn Độc lập Tự do, những tên Việt Cộng đàn em sáng Đảng mà mù tình Dân tộc hẳn phải vỗ tay khen vang lừng, cho đó là tư tưởng vĩ đại của Bác. Nhưng Dân tộc luôn luôn nhớ câu nói trứ danh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Đừng nghe những gì Việt cộng nói, mà hãy nhìn những gì Việt cộng làm, và trong dân gian cũng có câu vè tương tự Nói vậy mà không phải vậy, cho nên những lời của Hồ Chí Minh nói chỉ để nghe mà thôi, và chỉ đáng vất vào sọt rác lịch sử! Dân tộc đã sáng mắt chỉ thấy toàn những hành động tàn nhẫn, ác độc, gian xảo và mị dân của Bác, nên mới nuốt hận mà than rằng Không Tự do hơn, có quý gì Độc lập!
Màng lưới công an khổng lồ phủ chụp Dân tộc
Ngay những ngày tháng khởi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, sau bản Tuyên ngôn Độc lập, mối bận tâm của Hồ Chí Minh là đạo diễn và dàn dựng một màng lưới công an khổng lồ phủ chụp xuống Dân tộc từ Bắc chí Nam chuẩn bị cho việc thiết lập Chế độ Hộ khẩu và Công an Khu vực sau này. Những địa điểm chận bắt Việt gian và những người yêu nước khác chính kiến được đặt khắp nơi trên đất nước. Sau đây, xin đơn cử vài trường hợp.
Nguyễn Trân trên đường về thăm cha
Tác giả Nguyễn Trân, trong quyển Công và tội (trang 32) tường thuật việc bị chận bắt ở Quảng Ngãi như sau:
“Tôi rời Huế ngày 14 tháng 8 (năm 1945), về Quảng Nam thăm thân phụ tôi. Tôi cùng 4 người nữa đi bộ đến Phú Nhơn, phủ lỵ Sơn Tịnh cách tỉnh thành Quảng Ngãi ba cây số, thì Tự vệ Việt Minh đón chúng tôi lại. Bốn người cùng đi với tôi được thả ra sau khi họ “cúng” hết số tiền họ có từ 40.000 đồng tới 80.000 đồng cho cách mạng”.
Riêng Nguyễn Trân bị bắt, được giải đến người phụ trách tổng là Dương Hoàng. Dương Hoàng nhận ra Nguyễn Trân là người đã giúp đỡ y trong lúc y bị giam cầm ở Quảng Ngãi nên mới thả cho về.
Nữ sĩ Song Thu Phạm Thị Xuân Chi, một anh thư nước Việt
Ở Nam Bộ, hành trình tản cư của nữ sĩ Song Thu tức Phạm Thị Xuân Chi (người cháu nội trong gia đình nhà cách mạng Phạm Phú Thứ) được tác giả Phương Lan tường thuật như sau (Trích quyển Anh thư nước Việt, trang 235):
“Mặc dầu là nhà cách mạng lão thành chỉ có một tấm lòng yêu nước cao độ, chống xâm lăng, nhưng nữ sĩ không đi vào chủ nghĩa tam, tứ, hay đảng phái nào cả. Vì vậy, bà gặp nhiều tra gạn khó khăn, khi đi qua trạm Thanh niên đóng giữ. Họ đòi giấy phép của Ủy ban Nhân dân Kháng chiến cho lệnh tản cư. Bà không có, vì không muốn cho ai biết danh tánh của bà. Mỗi lần bị chận xét, bà lấy ra một xấp giấy năm trăm, chuồi vào tay người thanh niên bảo: “Đấy, xin anh nhận bỏ vào Quỹ Cứu quốc giùm tôi, để gọi là chút đóng góp của người công dân phụ nữ vô danh…” Thế là thoát… Khoát tay, người thanh niên bảo bà đi mau mau, sau khi thấy cọc bạc năm trăm cứu quốc. Trải qua mười mấy trạm từ Xuân Trường Thủ Đức lên đến Bình An, nào Lao Động đảng, nào Đông Dương đảng, Cứu Quốc đảng, mỗi trạm bà đều đánh nhân tâm cứu quốc cả cọc bạc.”
Vì sao nữ sĩ Song Thu có bạc 500 đồng cả cọc như vậy để “đóng góp vào Quỹ Cứu quốc”, câu chuyện thật lý thú được tác giả Phương Lan tường thuật đầy đủ trong chương Song Thu Nữ Sĩ (trang 224 sđd). Vị thế của nữ sĩ hợp tác với Nhật, giữ vai tuồng quan trọng ở Bộ Tham mưu Nhật, được tác giả Phương Lan viết như sau:
“Hợp tác với Nhật là để nhờ Nhật giúp Việt Nam trả lại nền tự do Độc lập bị Pháp chiếm gần 100 năm, chớ bà đâu phải người đi làm mướn, lãnh lương của Nhật, nhẹ thể bà cũng như nhẹ thể quốc gia. Và trong thời kỳ đó, bà luôn luôn chờ sẵn, can thiệp, giúp đỡ những anh em đồng chí bị Pháp bắt giam. Nhờ thế bà đã cứu được gần 4-500 người.”
Sau khi Nhật đầu hàng, người Nhật muốn bà giữ tất cả số giấy bạc 500 đồng thay vì phải đốt bỏ, nhưng bà cương quyết không nhận. Tác giả Phương Lan thuật tiếp: “Cuối cùng, họ đành chịu thua can trường quá thanh cao của người phụ nữ cách mạng Việt Nam. Họ liền lấy ngay cái tép đựng giấy tờ của nữ sĩ, hốt một mớ giấy bạc nhét đầy vào, và một cây súng nhỏ bảo với bà: “Trong thời loạn cần những thứ nầy lắm, xin lão nữ sĩ nhận cho để tùy thân.”
Phương Lan thuật tiếp rằng về đến nhà, nữ sĩ tặng cây súng cho người thanh niên tiền phong, con của một vị Đốc Phủ. Tiền thì đúng như lời người Nhật bảo, bà nhờ đó mà thoát nhiều nguy hiểm, và giúp đỡ nuôi ăn được năm sáu chục người trên con đường tản cư về Bình An.
Học giả Nguyễn Hiến Lê trên đường tản cư
Học giả Nguyễn Hiến Lê, trong chuyến tản cư từ Sài Gòn về Long Xuyên, có mang theo những sách tiếng Pháp về kỹ thuật đo đạc ruộng đất trong nghề của ông. Vào lúc đó, tiếng Pháp là ngôn ngữ quốc cấm. Lần đầu, học giả đến chợ Lái Thiêu thì gặp một nhân viên cũ cũng tản cư về đó và đang làm việc trong Ủy ban Hành chánh xã. Người nhân viên hiền lương tử tế đó tìm nhà cho học giả tá túc qua đêm, xin cho học giả Giấy phép Tản cư, và tìm cho một chiếc ghe xuôi về Mỹ Tho. Đến khi qua khỏi Đức Hòa một chút, ghe của học giả bị chận bắt. Một chị thanh nữ tiền phong, bắt gặp quyển sách dày về nghề Thủy lợi viết bằng tiếng Pháp, mở sách ra cầm ngược vì không biết chữ. Chị bắt và giải ông đến Ủy ban Hành chánh xã, thì may mắn thay, ông lại gặp một nhân viên cũ đã từng làm việc chung Sở Đạc điền dưới quyền ông. Anh nhân viên thứ hai nầy đứng ra bảo lãnh cho nên ông mới được thoát nạn. Thật may mắn cho nhà học giả Nguyễn Hiến Lê và cũng là đại hạnh cho Dân tộc. Đại hạnh cho Dân tộc vì trong những ngày tháng năm đẹp ở phương Nam sau đó, với công trình nghiên cứu thâm sâu và sức sáng tác phong phú lạ thường, nhà học giả Nguyễn Hiến Lê đã hoàn thành biết bao nhiêu là tác phẩm quý giá để tô điểm nền Văn học và học thuật Dân tộc.
Tâm sự ngậm ngùi của Bùi Diễm
Ở Bắc Việt, trong thời gian Hồ Chí Minh đi Pháp hội đàm ở Fontainebleau, thì chính quyền Việt Minh vừa tăng cường quân lực vừa tăng gia khủng bố các phần tử quốc gia. Tác giả Bùi Diễm viết như sau (quyển Gọng kìm lịch sử, trang 86):
“Không một nhóm nào, một tổ chức nào, một đảng phái nào đứng ngoài mặt trận Việt Minh mà thoát khỏi. Tôi không dám ngủ ở một nơi nào hai đêm liền. Đi đâu thì cũng phải nhìn trước nhìn sau, canh chừng đủ mọi thứ, đủ mọi người và khẩu súng lục giắt ở sau lưng có lẽ là một thứ vật dụng được nghĩ tới ngày đêm. Ông Trương Tử Anh cũng sống như vậy. Vì Việt Minh thừa biết ông là đảng trưởng Đại Việt, nên ông bị truy lùng gắt gao, bởi vậy mà đêm nào ông cũng phải rút về những nơi an toàn.”
Vào thời điểm đó, người đảng viên Đại Việt Bùi Diễm đã may mắn tránh thoát được lưới bủa chụp của Việt Minh, nhưng ông lại ngậm ngùi tâm sự (trang 91 sđd): “Người Việt Nam lúc này đang chiến đấu chống Pháp trong một cuộc chiến mà tôi vẫn khao khát được dịp đóng góp, nhưng Cộng sản đã ép tôi phải đứng ra ngoài và buộc tôi tìm đường trốn tránh. Họ đã tàn sát anh em bạn bè của tôi và giờ đây, đáng lẽ được cơ hội phục vụ, thì tôi phải lang thang, chịu đựng nghịch cảnh của một người đi tìm đường lẩn lút.”
Đến khi Bùi Diễm vào miền Trung, ẩn náu ở nhà ông chú là ông Cả Bân ở vùng Chợ Sim, Bái Thượng, thì cũng gặp lưới bủa của CS (tr. 94 sđd): “Trong khung cảnh đời sống gia đình của ông chú, tôi được dịp quan sát cách tổ chức của Việt Minh ở nơi thôn dã. Mọi việc lớn nhỏ trong làng đều do Ủy ban Hành chính Kháng chiến quyết định, nhưng việc mà họ cho là quan trọng nhất, là theo dõi hoạt động của những người trong làng. Ai đến, ai đi, ai giao du với ai? Cán bộ thường cứ ít ngày lại ghé thăm ông chú tôi, ngồi chơi la cà, hỏi hết chuyện này đến chuyện kia. Họ làm như thăm hỏi, nhưng sự thực họ đến để rình mò.”
Người đảng viên Đại Việt Bùi Diễm có tâm trạng ngậm ngùi vì mong muốn tham gia kháng chiến chống Pháp mà phải bị Cộng sản ép đứng ngoài cuộc chiến và phải tìm đường lẩn trốn. Cùng thời gian đó, ở miền Hậu Giang Nam Bộ, các nông dân tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cũng có cùng tâm trạng ngậm ngùi như vậy. Khi họ biểu tình ở Cần Thơ để phản đối Ủy ban Hành chánh Nam Bộ của Trần Văn Giàu độc quyền yêu nước thì họ bị Chánh quyền Cộng sản dùng súng máy đàn áp mãnh liệt gây nên biến cố đẫm máu Thiên An Môn Cần Thơ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh: lạt mềm buộc chặt
Giăng bủa một màng lưới vĩ đại khắp cả Bắc Trung Nam trong thời gian Kháng chiến để bắt và giết Việt gian làm Lễ Tế cờ, chỉ có tên Đại gian xảo Hồ Chí Minh mới làm được việc vĩ đại như vậy. Lại còn câu chuyện về chữ “NGỜ” mà không ai học được. Dân tộc Việt Nam bất hạnh tưởng rằng câu nói Lạt mềm buộc chặt mà Hồ Chí Minh thường nói chỉ là lối ứng xử mềm dẻo trong khi giao tế với bạn bè để không mất tình bạn, hoặc là cách giải quyết sự việc một cách uyển chuyển để cho có kết quả tốt đẹp. Thật bất ngờ. Hồ Chí Minh lại có thể ứng dụng Lạt mềm buộc chặt vào cách cai trị dân. Thật tai hại vô cùng! Người ta không cần khám đường, không cần xiềng xích, không cần gông cùm, không cần phải trói buộc dân, không cần phải bắt dân bỏ vào khám. Người ta học hiểu được ý của câu Lạt mềm buộc chặt theo thâm ý của Hồ Chí Minh, cho nên người ta chỉ cần ký trên giấy thành nghị định nầy hoặc nghị quyết nọ là xong. Như Nghị quyết 49/NQ/TVQH do Trường Chinh ký ngày 20-6-1961 đã buộc chặt Hòa thượng Thích Quảng Độ tại chùa Long Khánh ở xã Vũ Đoài trong 10 năm không đi đâu được. Như Nghị định NĐ31/CP do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 14-4-1997, chỉ trong vòng 11 ngày công an Đà Lạt đã học hiểu hết ý lạt mềm, đến ngày 25-4-1997 mới đem ra áp dụng để buộc chặt ba nhà trí thức yêu nước Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự và Bùi Minh Quốc. Câu chuyện Buộc chặt này được tác giả Kẻ Đồng Nai tường thuật trong bài Chính quyền chống lại ba nhà trí thức Đà Lạt, đăng trong nguyệt san Tin Nhà (số 29, tháng 08-1997) như sau:
“Đối với mỗi người, công an bố trí một lực lượng trung bình từ 8 đến 10 người, luân phiên theo dõi cả vợ lẫn chồng. Hằng ngày, Bùi Minh Quốc chở vợ ra quầy hàng bán búp bê đều có công an mặc thường phục hộ tống. Công an chìm theo dõi cửa hàng bán búp bê lẫn nhà riêng của Bùi Minh Quốc. Một vài người vô tình đến thăm Bùi Minh Quốc đều bị chận lại và được thông báo miệng cho biết ông đang bị quản thúc, không được vào thăm. Bùi Minh Quốc đến nhà ai thì người đó lập tức bị công an đến tận nhà làm việc. Thậm chí có một trung tá hưu trí đến phát lương hưu cho Bùi Minh Quốc cũng bị công an hạch hỏi vì nghi ngờ trao đổi tài liệu với ông này.”
“Nhà riêng của Tiêu Dao Bảo Cự, nằm trong một ngõ hẻm ở đường Nguyễn Đình Chiểu, bị canh giữ bằng hai chốt. Bà Phạm Thị Bạch Yến, vợ ông, bị canh giữ chặt đến nỗi không thể gọi điện thoại đi đâu được. Một hôm, bà đi ra phố, định dùng điện thoại công cộng để gọi về một người quen nhờ nhắn chồng ra đón thì ngay lập tức, bà bị một bàn tay của công an chìm chận lại, tuyên bố lạnh lùng: bà không được gọi điện thoại. Có lúc, bà về thăm mẹ đang bị đau nặng ở Bảo Lộc, công an vẫn lẽo đẽo đi theo. Thư từ gởi đến nhà, công an chận nhân viên phát thư lấy luôn!”
Ôi Công an nhục mấy cho vừa
Đến đầu thế kỷ 21, vào năm 2006 tức là sau khi Hồ Chí Minh chết 37 năm, lạt mềm của Hồ Chí Minh vẫn còn để lại dấu ấn mạnh để buộc chặt Trần Khải Thanh Thủy, một nhà văn nữ ở Hà Nội, người quyết tâm noi gương bất khuất của bậc đàn chị Dương Thu Hương dùng ngòi bút để chống lại bạo lực cường quyền. Xin mời đọc một đoạn văn của Trần Khải Thanh Thủy trong bài Ôi Công an nhục mấy cho vừa, ký đề viết từ Hang Đá ngày 23-9-2006.
“Với riêng tôi, càng làm việc với cơ quan công an Hà Nội, tôi càng phải chứng kiến những việc làm mạt hạng, đớn hèn, bẩn thỉu của cái gọi là Công an nhân dân Việt Nam.
Việc đầu tiên là chúng tung lính canh quanh nhà tôi, nhiều, và dai dẳng đến mức bà con hàng xóm đều phải tỏ vẻ khó chịu vì sự trơ lì của đám lính chì khốn khổ, khốn nạn này. Từ 7 giờ sáng khi tôi chưa ra khỏi nhà đã 5,7 tên lượn lờ quanh cổng, trải dài từ ngõ, trên khắp lối dẫn vào nhà. Tôi ngồi ăn sáng cũng có vài tên lính chì đeo bám, ngồi chầu hẫu bên cạnh như những con chó đói ngồi canh ông bà chủ để chờ một mẩu xương.
Đến bệnh viện khám bệnh, hay đi cắt thuốc tại nhà lương y, đều có mấy cái đuôi bám theo nhằng nhẵng, xộc vào tận nhà, ngồi sát bên cạnh, đến mức chủ nhà muốn nói chuyện cũng cụt hứng, đành phải bày tỏ sự khó chịu muốn chúng cuốn xéo cho nhanh. Rồi bạn bè nghe tin tôi ốm tìm đến thăm, hẹn tôi ở nhà mẹ đẻ để gặp gỡ, hỏi han, chia sẻ, trút bớt một phần gánh nặng do sự bóc lột tàn tệ của bệnh viện xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây ra, chúng cũng không buông, không cho phép tôi được nghỉ hoặc tự đi bằng chân mình mà phải cử 3 chiến sĩ theo. Hai tên ngồi dưới, một tên leo lên tận nhà, như một thượng khách (không mời mà đến). Đi lên trình diện hàng ngày cũng là người của công an cưỡng chế, hết giờ, áp tải tôi về nhà rồi còn ngồi lại rình rập ở quán bia, quán nước, hòng ngăn chận không cho tôi ra Nét hoặc nhận tiền của hải ngoại gửi về, nhằm cô lập kinh tế…”
Quỷ vương Hồ Chí Minh
Đến đây xin nhắc lại một lời nhận xét về Hồ Chí Minh trong quyển Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên và cũng xin nhắc lại lúc Đảng còn hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh là kẻ không cửa không nhà vì chưa đoạt được Bắc Bộ Phủ. Lúc Bác chưa có hộ khẩu ở đâu cả, Bác thường xem nhà của Vũ Đình Huỳnh, cha của Vũ Thư Hiên, như nhà của mình. Và rất nhiều lần Bác Hồ ăn cơm ở nhà cháu Hiên và cùng cháu Hiên chia xẻ cho nhau chỗ ngủ trên chiếc giường bé tý của cháu. Ấy vậy mà khi hai cha con cháu Hiên bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bắt giam trong thời gian dài chín mười năm không có án lệnh, không bị kết tội nặng tội nhẹ gì cả, Bác Hồ vẫn điềm nhiên an hưởng trong chức vị Chủ tịch Nước và Chủ tịch Đảng ở Bắc Bộ Phủ. Trời ơi! Bác Hồ mà lại vong ân bội nghĩa đến thế à! Trời ơi! Xem Bác Hồ có giống tên tướng cướp trên đường trốn chạy nhờ cô lái đò tốt bụng đưa sang sông rồi lại nhận chìm chiếc đò và giết người con gái ân nhân của mình! Trời ơi! Bác Hồ mà lại tàn nhẫn độc ác đến như vậy! Tại sao Bác Hồ lại xây dựng một chế độ vô pháp luật như vậy! Xem Bác Hồ có xứng với lời phê của một người bạn tù mà Vũ Thư Hiên đã ghi lại (Trích Đêm giữa ban ngày, trang 251):
“Chúng ta nhầm... Ông Hồ cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải là vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là Quỷ vương.”
Thảo nào có tác giả còn gọi Hồ Chí Minh là Ma đầu, là Quỷ sứ, là Mãng xà tinh, là Con yêu râu xanh nữa. Với lời dẫn giải sau đây, nếu chúng ta gọi Hồ Chí Minh là loại Vi trùng truyền nhiễm thì cũng không sai!
Vi trùng mang tên Hồ Chí Minh!
Theo Vũ Thư Hiên thì “Hồ Chí Minh biến những con người lương thiện thành những con quỷ”. Trong một cách diễn tả khác, ta có thể nói phát xuất từ tâm địa độc ác của Hồ Chí Minh, “lạt mềm buộc chặt” như một mốt thời thượng độc hại truyền nhiễm vào nghị quyết 49/NQ/TVQH do Trường Chinh ký, rồi lại lây lan vào nghị định NĐ31/CP do Võ Văn Kiệt ký, rồi lại biến thái thành Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính ngày 1-10-2002, rồi phát tán vào các Công an biến họ thành những lạt mềm để buộc chặt người dân. Trong tâm địa ác độc của Hồ Chí Minh, mỗi người dân Việt là một kẻ phản động tiềm ẩn (“Phản động tiềm ẩn” chữ của Đào Trường Phúc trong quyển Quê hương lưu đày), mỗi người dân Việt là một người tù dự khuyết và do đó đất nước Việt thân yêu của chúng ta đã biến thành nhà tù khổng lồ. Đến bây giờ thì lạt mềm lúc nhúc, sinh sôi nảy nở như loài vi trùng. Ồ! Tìm được rồi! Dân tộc đã tìm ra rồi! Lạt mềm chính là vi trùng Hồ Chí Minh ! Vi trùng Hồ Chí Minh truyền nhiễm đã sinh ra những lạt mềm độc hại tàn phá Đất nước! Phải tìm phương thuốc để trị vi trùng Hồ Chí Minh ngay mới được!
Đã qua năm 2000 rồi, Việt Nam ra sao!
Sau đây là những kết quả thống kê các cơ quan quốc tế nghiên cứu về pháp luật, dân chủ và tự do của Việt Nam đối chiếu với các quốc gia trên thế giới. Nhưng trước hết, xin đọc lời phê bình ngắn gọn nhưng rất đầy đủ về thực trạng xã hội Việt Nam của sử gia Michel Tauriac trong quyển Hồ sơ đen Cộng sản Việt Nam từ 1945 đến nay:
“Một xã hội công an lúc nhúc như rắn rết, linh mục bị đàn áp, tăng sĩ bị tấn công, trẻ ăn xin đầy đường phố, giới trẻ không phương hướng, bắt giam người không cần xét xử, nhà văn bị cấm viết những gì cần viết, nhà báo nhận lệnh phải viết bất cứ thứ gì, quan chức tham ô nhét tiền đầy túi trong khi dân chúng luôn quằn quại với cái bụng trống không…”
Việt Nam bây giờ đứng hạng bét về dân chủ! Ban Thông tin Kinh doanh (Economist Intelligence Unit) của tạp chí The Economist nghiên cứu về Chỉ số Dân chủ (Democracy Index): trong tổng số 167 quốc gia được nghiên cứu thì Việt Nam xếp thứ 145. Trong bảng sắp hạng thì Thụy Điển là nước có nền dân chủ lý tưởng nhất thế giới, đứng hạng chót là Bắc Hàn vì vẫn theo chế độ Cộng sản độc tài chuyên chế, còn Việt Nam với hạng 145 chỉ đứng trên 22 nước mà thôi!
Việt Nam cũng bị xếp trong 45 nước không có tự do! Viện Tự do (Freedom House) trụ sở ở Hoa Thịnh Đốn phúc trình năm 2006 về tình hình nhân quyền tại 193 nước trên thế giới như sau: 90 nước có tự do (47% dân số toàn cầu), 58 nước có một phần tự do chiếm 30%, số còn lại là 45 nước không có tự do trong đó có Việt Nam!
Việt Nam đứng hạng chót về hệ thống pháp luật, chỉ trên có Nam Dương. Tổ chức PERC tư vấn về Rủi ro Chánh trị và Kinh tế năm 2005 khảo sát về 12 quốc gia châu Á nhận xét hệ thống pháp luật của nhà nước CSVN bị xem là yếu kém nhất. Trong ba nước đứng hạng chót là Trung Hoa, Việt Nam và Nam Dương.
Lại thêm một thành tích không đẹp! Xét về năng lực sáng tạo của một quốc gia qua Chỉ số Năng lực Sáng tạo II (Innovation Index), thì trong 117 quốc gia được thăm dò, Việt Nam đứng hạng thứ 82 và bị xếp vào nhóm các quốc gia còn kém về khoa học phát triển. Chỉ số 82/117 cho Việt Nam được hiểu như Việt Nam chỉ đứng trên 25 quốc gia nhưng lại thua kém 81 nước, dưới trung bình quá nhiều! Chỉ số nầy dựa theo sự nghiên cứu World Investment Report của Liên Hiệp Quốc.
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, trong bài Tình trạng môi trường Việt Nam sau 32 năm (do Bán tuần báo Việt Luận, số 2243 ngày 7-3-08) đã cho biết Chỉ số Môi trường Bền vững năm 2006 (Environmental Sustainability Index) do Diễn đàn Kinh tế họp tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 3-2006 thì Việt Nam đã đứng cuối bảng trong 8 quốc gia ASEAN. So với 146 quốc gia đang phát triển trên thế giới, Việt Nam được xếp hạng 127.
Theo sự nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2006, ông Il Houng Lee, chuyên viên của tổ chức này đặc trách về Việt Nam, nhận định rằng Việt Nam phải mất một thời gian dài mới mong bắt kịp nền kinh tế của các nước khác trong vùng. Theo ông Il Houng Lee, Việt Nam phải mất 197 năm, tức là 8 thế hệ mới mong bắt kịp nền kinh tế của Singapore. Muốn so sánh với Đài Loan, Nam Hàn, hay Nhật Bản thì Việt Nam còn thảm bại hơn nhiều! (bài Việt Nam - 60 năm xây dựng và huỷ diệt của Trần Đại Việt, Đàn Chim Việt, Bán tuần báo Việt Luận đăng lại ngày 7-4-2006).
Tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng và dã man hơn Hitler!
Nếu không muốn tham khảo những kết quả thống kê của các cơ quan quốc tế kể trên, một cách ngắn gọn, Dân tộc hãy quay về tìm lại Lời nhận định của vị tướng Trần Độ trong Nhật ký Rồng rắn, tập bản thảo 83 trang mà Công an của “Tp Hồ Chí Minh” đã chận đường tịch thu và không chịu trả lại dù ông đã nhiều lần viết thư đòi. Chuyện công an cướp bản thảo của ông xảy ra vào ngày 12-6-2001, thì mãi đến khi ông từ trần, trong tang lễ ông ngày 14-8-2002, hai người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền Hoàng Minh Chính và Nguyễn Thanh Giang, nhờ có đọc bản thảo trước, mới tiết lộ cho Dân tộc biết Lời nhận định của ông trong Nhật ký Rồng rắn, đại khái như: “Cái chế độ xã hội chủ nghĩa của VN hiện nay nó tàn bạo hơn cả chế độ của Tần Thủy Hoàng và dã man hơn sự dã man của chủ nghĩa phát xít Hitler.”
Mãi đến 2004, nguyên bản Nhật ký được Tủ sách Thời sự VN và thế giới do Tâm Việt xuất bản ở Virginia, Hoa Kỳ. Trong Nhật ký Rồng rắn, nguyên văn Lời nhận định trên là: “Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một Dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ”.
Lời bàn: Hồ Chí Minh là người sáng lập đảng Cộng sản Việt Nam theo xã hội chủ nghĩa với chuyên chính vô sản, cho nên Lời nhận định của cựu Tướng Trần Độ trong Nhật ký Rồng rắn phê bình về chế độ, tức là hàm ý nhắm đến người xây dựng chế độ mà thủ phạm là Hồ Chí Minh. Lời nhận định trên có thể diễn tả theo một cách sát thực tế hơn, tức là Hồ Chí Minh tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng và dã man hơn Hitler! Diễn tả theo cách ngắn gọn nầy, ta mới thấu hiểu được nỗi thống khổ cùng cực của Dân tộc!
Tệ nạn ô lậu của xã hội chủ nghĩa
Cựu Tướng Trần Độ phê bình chế độ về nét dã man và tàn bạo như trên, còn về những tệ nạn khác như tham ô và buôn lậu, thì có một tác giả chế tác một từ rất thời thượng là Ô lậu, một từ ngắn gọn để chỉ xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính Phan Văn Khải, khi vừa nhận chức thủ tướng, đã thấy rõ tình trạng Ô lậu của Đất nước, nên phải lớn tiếng kêu lên rằng (Tiểu luận Việt Nam Dân tộc bị đọa đày của Lý Đại Nguyên, trang 131): “Tham nhũng và buôn lậu, ngập ngụa trong Đảng, Chính quyền, Công an và Quân đội, không chỗ nào mà không có.”
Bây giờ nhớ lại cuộc Cách mạng Mùa thu 1945, đọc lại bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9, mới thấy rất rõ rằng Hồ Chí Minh không “ái quốc” nên đã dẫn Dân tộc đi lạc đường. Cuộc Cách mạng Mùa thu đã hư rồi! Hồ Chí Minh đã phá hư cuộc Cách mạng Mùa thu của Dân tộc rồi! Dân tộc phải mau mau tự tìm lại con đường đúng để đi. Phải làm lại cuộc Cách mạng khác. Phải mau mau đi tìm thuốc để trị vi trùng Hồ Chí Minh. Đừng để bịnh nặng thêm.
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn xuất hiện!
Phạm Hồng Sơn là vị bác sĩ trẻ sinh năm 1968, tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội năm 1992. Được đào tạo thành bác sĩ y khoa, nhưng Bác sĩ Phạm Hồng Sơn lại không đành lòng và yên tâm chữa trị cho bịnh nhân trong khi cả Đất nước cũng đang bịnh quá nặng. Nhân đây, xin nhắc lại một đoạn sử liệu về ông Phan Đình Phùng trong Phong trào Cần vương. Hưởng ứng Hịch Cần vương của vua Hàm Nghi, ông lập Sơn Phòng ở Hà Tĩnh, lập cơ sở rèn gươm đúc súng, chiêu mộ nghĩa binh, hết lòng giúp vua chống giặc Pháp. Giặc Pháp bắt được anh của ông là Phan Đình Thông, mới gởi thư chiêu dụ ông ra hàng, nếu không thì chúng sẽ xử tử anh ông và phá tan đền thờ và mộ phần của gia tộc họ Phan. Đọc thư xong, ông cười và nói rằng:
“Tôi chỉ có một ngôi mộ thật to nên giữ là đất nước Việt Nam. Tôi chỉ có một ông anh rất to là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về để lo phần mộ của mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Nếu về để cứu sống ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi thề chỉ có chết mà thôi.”
Noi gương yêu nước thương nòi của ông Phan Đình Phùng, hơn một trăm năm sau, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn cũng có một bịnh nhân rất lớn là Dân tộc đang bị đọa đầy thống khổ và ngôi mộ rất lớn là Đất nước biến thành Nhà tù khổng lồ đang bị vi trùng Hồ Chí Minh đục khoét nặng nề. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn để hết tâm trí tìm phương thuốc chữa bịnh cho Đất nước. Và người thầy thuốc yêu nước đã tìm ra được thuốc trị! Thuốc trị vi trùng HCM được trình bày sau đây. Xin báo cho Đảng và Dân tộc biết để xử dụng. Nếu thuốc hay mà Đảng không chịu dùng thì hãy để cho Dân tộc được trọn quyền xử dụng!
Phương thuốc chữa trị vi trùng Hồ Chí Minh
Đầu năm 2002, vào khoảng tháng 2, từ tài liệu What is demo-cracy? hạ tải từ trang Thông tin Điện tử của sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã phiên dịch sang Việt ngữ Thế nào là Dân chủ? Xin nhắc lại để nhớ, trước đó năm mươi bảy năm, vào Mùa thu “Kách mệnh” 1945, Hồ Chí Minh đã lếu láo chôm chỉa ý trong bài Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ - cũng của Hoa Kỳ - để viết bài Tuyên ngôn Độc lập cho Việt Nam làm mồi nhử Dân tộc đi theo ông. Rồi ông dẫn Dân tộc đi lạc đường sang Nga và Tàu, đúng ra ông đã bắt Dân tộc đi theo “Con đường Bác đi tức là đi theo Cuộc Cách mạng đã bị phản bội”. Nói hoài, nói mãi, chán lắm! Giá mà Hồ Chí Minh “ái quốc” dẫn dắt Dân tộc đi đúng con đường Tự do Dân chủ hồi năm 1945, thì đến 2002, hà tất Bác sĩ Phạm Hồng Sơn phải mất công làm công việc dư thừa đi lo chuyện Thế nào là Dân chủ. Làm chi cho mệt! Lại còn bị kết tội là gián điệp để bị 4 năm tù và 3 năm quản chế!
Thôi! Nói hoài, nói mãi, chán lắm! Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã tìm ra thuốc để trị vi trùng Hồ Chí Minh rồi. Bài thuốc đó là “Thế nào là Dân chủ”. Hãy để cho Dân tộc xử dụng. Nếu Đảng chưa muốn dùng thuốc để trị liệu là chỉ vì Đảng vẫn còn muốn tiếp tục và kéo dài mãi Cuộc Chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc! Đánh đến chừng nào mới thôi! Đánh hoài, đánh mãi, chán lắm!
Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney
CHƯƠNG 2
LỄ TẾ CỜ CỦA HỒ CHÍ MINH
Lễ Tế cờ của Hoàng Sào
Trong các truyện Tàu, có một câu chuyện thật lý thú về Lễ Tế cờ như sau. Về cuối đời nhà Đường có một nhân vật giỏi võ nghệ tên là Hoàng Sào muốn dấy binh để dựng nghiệp lớn. Khi nhận được bảo kiếm của Thiên Đình trên trời do một vì tiên mang xuống, Hoàng Sào mới định ngày làm lễ khai đao và tế cờ. Lúc đó Hoàng Sào tá túc trong một ngôi chùa cho nên mới hứa với vị lão tăng trụ trì là không giết ai trong chùa cả và bảo các người trong chùa hãy lẩn tránh đi nơi khác. Đến ngày khai đao, Hoàng Sào đến một nơi vắng vẻ, rút bảo kiếm và chém vào một cây cổ thụ. Oái oăm thay, khi cây cổ thụ bị chém ngã thì Hoàng Sào chợt nhìn thấy vị lão tăng cũng bị chém theo cây! Thì ra, vì quá sợ nên vị lão tăng đã ẩn núp trong bọng của cây cổ thụ đó, và không cố tình và không nhẫn tâm mà Hoàng Sào đã chém chết người đã nuôi nấng bảo bộc mình. Hoàng Sào khóc mà than rằng: “Bản tâm tôi không định giết, tại sao lại trốn vào đây? Thật là số trời, không sao tránh khỏi.”
Đó là chuyện Lễ Tế cờ trong truyện Tàu ngày xưa. Hoàng Sào chỉ chém vào cây cổ thụ, nhưng cũng phạm vào tội giết một nhân mạng. Còn chuyện Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh ngày nay thì sao, xin mời quý bạn đọc.
Lưỡi hái tử thần từ hang Pắc Bó do Hồ Chí Minh mang về
Mấy ngàn năm sau, vào mùa thu năm 1945 trên đất Việt, Hồ Chí Minh kéo đồng đảng từ hang Pắc Bó ở Cao Bằng về Hà Nội và đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập ở vườn hoa Ba Đình nguyên văn như sau: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...”
Trước quốc dân đồng bào thì Hồ Chí Minh tuyên đọc như vậy, nhưng thật ra ông đã nhận lịnh từ KGB của Đệ tam Quốc tế, ngoài mặt mượn cớ đánh đuổi thực dân Pháp nhưng thực tâm chỉ để xây dựng đảng Cộng sản Việt Nam và phục vụ Đệ tam Quốc tế của Stalin. Vì ác độc và vô cùng khát máu, giống như các bậc thầy Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông, nên Hồ Chí Minh đã chỉ đạo một cuộc Lễ Tế cờ khủng khiếp có một không hai trong lịch sử, sát hại không biết bao nhiêu người vô tội gây ra cảnh thây trôi đầy sông, xác chôn ngập hầm.
Trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam, Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là tội ác diệt chủng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử và là tội ác đầu tiên của Việt Cộng. Hồ Chí Minh, ngay từ Mùa thu lịch sử 1945, đã đạo diễn một cuộc mở màn đầy sắt máu rất cân xứng với Cuộc Chiến tranh đánh Dân tộc kéo dài 30 năm, gây năm, sáu triệu người chết, cả chục triệu người bị thương, và hơn một triệu người phải sống kiếp ly hương nơi xứ lạ quê người. Tiếp theo Lễ Tế cờ là biết bao nhiêu tội ác khác: Đấu tố trong Cải cách Ruộng đất gây hai, ba trăm ngàn người chết, vụ Nhân văn Giai phẩm, vụ án oan khuất Xét lại Chống đảng, vụ Đàn áp ở Quỳnh Lưu khiến 1000 nông dân bị giết và 6000 bị đày biệt xứ, vụ Tàn sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân 4000 người bị đập đầu chôn sống, bắn vào dân chạy loạn gây tử thương mười mấy ngàn người trên Đại lộ Kinh hoàng trong Mùa hè Đỏ lửa, pháo kích vào trường học ở Cai Lậy, dùng đại liên bắn vào xe đò Sài Gòn-Lục Tỉnh để khủng bố mà thâu thuế...
Lá cờ máu của Hồ Chí Minh được tế bằng máu của biết bao nhiêu người dân vô tội như vậy, thực sự chỉ là lá cờ của đảng Cộng sản hung tàn khát máu, chớ không bao giờ xứng đáng là lá Quốc kỳ chính thức của Dân tộc Việt Nam, một Dân tộc có truyền thuyết Một mẹ trăm con vô cùng thân thương, một Dân tộc vượt cao trên bậc thang văn hóa của nhân loại vì đã ưu ái dùng từ Đồng bào để gọi những người dân trong cùng một nước. Nhưng than ôi! Chỉ trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc khởi nghĩa chống Pháp mà Hồ Chí Minh đã giết không biết bao nhiêu người là đồng bào của mình như vậy, cho nên sau nầy có người gọi Hồ Chí Minh là người Nga gốc Việt, người “Công dân Búa liềm” (chữ của tác giả Việt Thường trong quyển Sự tích Con yêu râu xanh). Người “Công dân Búa liềm Hồ Chí Minh” nầy đã quên mất gốc Việt của mình rồi mà lại còn đánh mất cả nhân tính nữa. Thật đúng như vậy, bởi vì khi Hồ Chí Minh “đã đi hết biển” và trở về cố hương để “làm việc”, thì ông đã là Quốc tế ủy (Kominternchik), tức là một đảng viên ưu tú và trung kiên được đào luyện thấu đáo để cống hiến hoàn toàn cuộc đời mình phục vụ Quốc tế Cộng sản (Komintern).
Mỗi người Việt chúng ta, thấm nhuần tình tự Dân tộc từ ngàn xưa, đều mang trong tâm những ý niệm nhân từ bác ái cứu nhân độ thế như: Cứu nhất nhân, đắc vạn phúc, hay Dẫu xây chín đợt phù đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một người, hoặc Bầu ơi, thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn... Phát động một sát trường kết liễu mạng sống hàng vạn người dân vô tội trong tay không một tấc sắt để tự vệ, theo kiểu “Kách mệnh của Hồ Chí Minh”, chỉ là sách lược vô nhân thất đức của kẻ giết người cướp của mở đường cho chế độ độc tài đảng trị tham tàn khát máu, chớ nào phải thượng sách cứu quốc của những bậc chí sĩ làm cách mạng chân chính thực thi công bằng xã hội và mang lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Những nạn nhân về Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh nhiều vô số, nhưng chúng tôi chỉ xin nêu ra đây những trường hợp điển hình đệ trình trước tòa án lịch sử để sau nầy Dân tộc xét xử.
Sử dụng chiêu bài Việt gian, Cộng sản đã chém giết bừa bãi rất nhiều thường dân vô tội. Nhiều người đã bị chặt đầu, mổ bụng chỉ vì trong nhà có vài quyển sách giáo khoa bằng tiếng Pháp, hay quần áo có màu xanh, trắng, đỏ... Việt Minh Cộng sản còn chụp cái mũ Việt gian lên đầu những kẻ có tư thù, hay những người yêu nước không cùng một đường lối cứu quốc với họ.
Thời của những đồ tể
Sử gia Vũ Ngự Chiêu, trong tác phẩm Các vua cuối Nhà Nguyễn đã gọi Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là “Thời của những đồ tể”. Ông viết như sau (tập 3, trang 872): “Khí thế Việt Minh tỏa rộng nhanh khắp ba kỳ, đánh dấu “thời của những đồ tể”. Cảnh cắt tiết, mổ bụng, khoét mắt, buộc đá ném xuống sông các nạn nhân (mò tôm) lan tràn, gây hoảng sợ và căm phẫn trong nhiều giai tầng xã hội. Nhưng bạo lực cũng chỉ mới khởi đầu.”
Ông viếp tiếp rằng để trả lời những chỉ trích về “thời của các đồ tể” này, cơ quan ngôn luận của đảng CSĐD như Cờ Giải phóng tự biện hộ (trang 881 sđd): “Nhân tài quí thực, nhưng nếu cần vẫn phải trừ khử”.
Cô gái tám tuổi ở Hà Nội kể chuyện
Xin kể chuyện một cô gái 8 tuổi ở Hà Nội tản cư về quê trong thời kỳ đầu của cuộc Tiêu thổ Kháng chiến chống Pháp, trong quyển hồi ký của Nguyễn Thị Ngọc Dung Phượng vẫn nở bên trời Hà Nội (tr. 107):
“...Làng So có nghề làm tương rất ngon, có lẽ vì không xa làng Cự Đà chăng? Món rau diếp xanh tươi chấm cà chua chưng với tương, hành, mỡ béo ngậy, ăn hoài không chán. Nhưng phải cẩn thận, tránh đừng mua rau xanh, cà chua đỏ, đậu trắng để trong rổ cùng một lúc. Mấy cán bộ ta sẽ gán cho cái tội Việt gian mang cờ Pháp. Dù mầu xanh rau là xanh lá cây, xanh cờ Pháp là xanh dương. Những người bạn dân đó sẽ cho mấy mắng, mấy bạt tai, mất công lắm! Vậy cũng còn nhẹ. Một buổi chúng tôi theo mẹ đi chợ trời họp dưới chân đê làng bên, bất thình lình máy bay Pháp tới quần bắn tứ tung. Mọi người kéo nhau chạy tán loạn vào ẩn núp dưới bãi vải. Khi máy bay bỏ đi, êm ắng trở lại, các cán bộ răng đen, mã tấu hung hăng xông tới bắt các thanh niên nam nữ Hà Nội tản cư mặc quần áo trắng. Họ bị đánh đập tàn nhẫn đến vỡ đầu, bể mặt, máu chảy đỏ áo quần và vu tội làm chỉ điểm cho máy bay Pháp tới bắn phá. Hôm đó chúng tôi cũng mặc quần áo trắng nhưng còn nhỏ và mẹ lanh trí kéo chúng tôi nhanh chân chạy tuốt luốt một đường không kịp thở nên thoát.”
Nhà văn Tạ Tỵ kể chuyện
Nhà họa sĩ và văn sĩ Tạ Tỵ, trong quyển hồi ký Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi cũng thuật một câu chuyện khác về đề tài Việt gian. Lúc đó là khoảng mấy tháng đầu của cuộc kháng chiến và Tạ Tỵ đang phụ trách lớp dạy vẽ cho các cán bộ Thông tin Tuyên truyền ở làng Phù Lưu Tranh. Xin mời quý bạn đọc (trang 95 sđd):
“Sau 2 giờ dạy, được nghỉ 15 phút giải lao. Một học viên cho tôi biết, sáng nay, hồi 10 giờ, sẽ có cuộc xử bắn hai tên Việt gian ở khu đất trống gần chân núi: - Thày có đi coi không?
Tôi trả lời dứt khoát: - Không!
Nói cho đúng, tôi vốn không thích cảnh chém giết, nhất là tội Việt gian! Cái tội này nó mơ hồ lắm. Nếu xét trong người có chiếc gương nhỏ soi mặt, bị ghép ngay vào tội dùng gương làm ám hiệu cho phi cơ thả bom! Nếu ai mặc áo sơ-mi may bằng vải popeline trắng, mép vải có hai lằn xanh đỏ, cũng là Việt gian vì mang màu cờ của Pháp. Còn nhiều nữa, bất cứ thứ gì, anh du kích xã thấy lạ mắt đều là các vật liệu dùng để liên lạc, do thám cho địch!
Giờ giải lao vừa xong, các học viên vào chỗ ngồi, tôi chưa kịp giảng bài bỗng có những tiếng súng vọng lại. Thế là có 2 mạng người đi sang thế giới khác. Kể từ giây phút đó, tư tưởng bị phân tán, tôi nói loạn xạ, mong cho chóng hết giờ để đi về. Sau khi dạy hết một khoá, tôi xin nghỉ, nại cớ bận sáng tác, sự thực trong tôi đã dấy lên niềm chán nản”.
Tác phẩm Trả ta Sông núi của Phạm Văn Liễu
Tác giả Phạm Văn Liễu, thuộc thế hệ hào hùng tham dự trường Lục quân Trần Quốc Tuấn của VNQDĐ, trong quyển Trả ta Sông núi, đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau:
“Suốt cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê. Nạn nhân phần đông là những người có đôi chút tiếng tăm hay gia sản. Cán bộ Cộng sản chụp cho họ cái mũ “Việt gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo này. Khi bị báo chí chất vấn về những vụ bắt bớ bừa bãi, Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh kiêm Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trâng tráo đáp: “Tất cả những người bị bắt giữ đều là những người có tội với quốc dân.” Những tội nhân này, theo báo chí Cộng sản, có cả những cựu đồng chí VNQDĐ của Trần Huy Liệu như Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Đào Chu Khải, các tu sĩ Phật giáo và một số linh mục, thày giảng, trùm đạo Thiên Chúa Giáo”.
“Ngày 5-9-1945, Võ Nguyên Giáp còn nhân danh Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời đặt đảng Đại Việt và các tổ chức Thanh niên không nằm trong Mặt trận Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật. Từ ngày này, các đội tự vệ, du kích địa phương đêm đêm gậy gộc, giáo mác, tăng cường bằng vài khẩu súng lục hay ngựa trời, kéo nhau đi bắt Việt gian và gián điệp cho Tây! Tại miền Bắc, hàng trăm, hàng ngàn người bị bắt, giết…”
Chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ
Những câu chuyện về Việt gian thật phổ biến trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến. Sau đây là chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ trong quyển Việt Nam máu lửa (trang 128) với đầy đủ chi tiết hơn.
“Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận. Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế mãi. Dân chúng với cuộc đời vô định đã làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bom đạn, cho các trận càn quét...
Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ còn vẻn vẹn một quán nước con con. Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày giơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét, chưa đủ, người dân còn phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: những vụ bắt bớ liên tiếp với lời sỉ vả Việt gian.
Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau lòng lắm bằng theo Chánh phủ mà Chánh phủ lại xử bắn vì tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót!
Những người bắt Việt gian thường khi chẳng phải là Công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác tình nghi và bắt bớ. Những cớ để bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên hình vạn trạng:
Cô tiểu thư vô tình cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi đại tiện trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô tình trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên bãi cỏ: Việt gian, Việt gian tất… Một học sinh mang theo trong người chiếc bút chì nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: đấy là cờ của Pháp, đấy là dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ.
Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ vì lý do Việt gian lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân còn luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh mình ai cũng có thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi mình cư ngụ.
Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, Công an, hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc”.
Xác người trôi đầy sông
Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản của ông đã biến Cuộc Cách mạng Mùa thu hào hùng của Dân tộc thành Cơn bão thu khốc liệt quét phủ màng tang tóc lên khắp dải non sông thân yêu (Nguyễn Chí Thiện gọi là “Mùa thu Nước lũ”). Một nhân chứng khác là tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn đời chạy giặc đã phải bỏ nghề Kiểm lâm để mua một thuyền nan nhỏ buôn bán một ít đồ hàng trên sông ở khoảng Đò Lèn và đã chứng kiến (trang 187 sđd):
“Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”.
Sát hại Hòa thượng Thích Đức Hải
Đúng ngay ngày 19-8-1945, ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông sư phụ của Thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị xử tử.
Ngày 19-8-1945, vào lúc 10 giờ sáng, Hòa thượng Thích Đức Hải, trụ trì tại chùa Linh Quang, xã Thanh Sam, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông đã bị đánh đập dã man trước khi bị hành quyết tại bãi cỏ trước đình làng Bặt thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, cách chùa của hòa thượng hai cây số. Trong bức thư gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 19-8-1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ giãi bày như sau:
“Nhưng dù có bị giết chăng nữa thì tôi cũng nói lên niềm tin vững chắc của tôi là chủ nghĩa Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài. Không phải bây giờ tôi mới có niềm tin ấy, mà nó đã nảy sinh trong tôi ngay từ lúc 10 giờ sáng ngày 19-8-1945 (hồi đó tôi 18 tuổi) khi tôi nhìn sư phụ tôi, hai tay bị trói bằng dây kẽm quặt về phía sau, cổ đeo hai tấm biển viết mấy chữ Việt gian Bán nước, một tấm trước ngực một tấm sau lưng, đứng giữa sân đình làng Bặt, hai bên một đoàn người tay cầm gậy gộc giáo mác, cu liêm bồ cào đứng canh gác. Một nhóm người mệnh danh là quan tòa của Tòa án nhân dân đứng trên thềm đình để xử án. Họ bắt sư phụ tôi quì xuống sân đình và cúi đầu nghe tòa luận tội. Nhưng sư phụ tôi đã không chịu làm thế. Một người từ trên thềm đình bước xuống đứng trước mặt sư phụ tôi, nói: “Mày là thằng Việt gian Bán Nước mà còn ngoan cố à?”
“Nói xong, họ đấm vào quay hàm thầy tôi mấy cái, một dòng máu từ trong miệng sư phụ tôi ứa ra, chảy theo cằm nhỏ xuống thấm đỏ tấm biển Việt gian Bán nước ở trước ngực. Lập tức họ tuyên án tử hình rồi đưa sư phụ tôi ra trước bãi cỏ trước đình, máu từ miệng sư phụ tôi tiếp tục chảy ra, thấm vạt áo dài, nhỏ xuống sân đình. Khi đến bãi cỏ, họ vật sư phụ tôi nằm nghiêng xuống rồi một người bắn vào màng tai sư phụ tôi ba phát súng lục, lại một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp và sư phụ tôi chết liền tại chỗ. Dòng máu ấy với hình ảnh sư phụ tôi hai tay bị trói nằm chết trên bãi cỏ máu me đầy mặt, hai tấm biển Việt gian Bán nước thấm máu, vạt áo thấm máu, hai bàn chân thấm máu, máu vương trên bãi cỏ, chỗ nào cũng thấy máu. Tất cả những hình ảnh ấy đến nay đã 49 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ như in và tưởng chừng như mới hôm nào đó thôi. Thật là một cơn ác mộng.”
“Trong cơn đau đớn tột cùng và hai hàng nước mắt tuôn chảy, ngay từ giờ phút ấy, ngồi trên bãi cỏ nhìn xác sư phụ tôi, tôi đã nghĩ Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài, lí do: Cộng sản chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, đánh và giết người như thế là ác quá, mà cái ác thì thường không bền, lịch sử đã chứng minh điều đó. Bởi lẽ, tâm lí người ta nói chung, tuyệt đại đa số đều yêu cái thiện ghét cái ác, mà cái người ta đã ghét thì khó tồn tại lâu được. Bảy mươi bốn năm tồn tại (1917-1991) của chế độ Cộng sản Liên sô không phải là một thời gian lâu dài nếu so với 215 năm tồn tại của triều đại nhà Lý tại Việt Nam mà, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, là một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam.”
Bức thư Hòa thượng Thích Quảng Độ viết ngày 19-8-1994 gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười là một bức thư lịch sử vô cùng quan trọng, bởi vì đúng vào ngày 19 tháng tám 49 năm trước, tức là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền 19-8-1945, máu vị chân tu Thích Đức Hải đã chảy thấm tấm biển Việt gian Bán nước, để khởi đầu cho CƠN PHÁP NẠN do Cộng sản vô thần gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, hòa thượng Thích Quảng Độ cũng tố cáo Cộng sản đã sát hại vị sư bá và sư tổ của mình.
Vị sư bá của Hoà thượng Thích Quảng Độ (tức là đạo huynh của Hòa thượng Thích Đức Hải) là Hòa thượng Thích Đại Hải. Ngài trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) thuộc tỉnh Bắc Ninh, cũng đã bị Cộng sản bắt vào năm 1946 và sau đó đã chết vì bị kết tội là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.
Vị sư tổ của Hòa thượng Thích Quảng Độ pháp huý là Thích Thanh Quyết trụ trì chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1954, Cộng sản vào chùa bảo ngài có tội dùng tôn giáo chính là thuốc phiện để ru ngủ nhân dân và sẽ bị qui định thành phần đưa ra đấu tố. Ngài quá sợ bèn thắt cổ chết để khỏi bị mang ra đấu tố.
Sát hại Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh
Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Việt Cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị.
Viết về vụ sát nhân dã man nầy, chúng ta không khỏi không nhắc đến tên hai người khá nổi tiếng trong lịch sử cận đại có ít nhiều liên quan với trường Quốc Học Huế, người thứ nhất là Ngô Đình Khả và người thứ hai là Nguyễn Kim Thành. Cụ Ngô Đình Khả chủ trương khai dân trí bằng cách mở mang và đại chúng hóa nền giáo dục theo đường hướng kết hợp hai nền văn hóa Đông Tây. Cụ đã trở thành người rất tâm đắc của vua Thành Thái. Khi mới lên ngôi, nhà vua chỉ mới 10 tuổi, nhưng rất thông minh và giàu lòng yêu nước. Khi vua Thành Thái đúng 18 tuổi (năm 1896) được tự quyết định việc triều chính, ngài đã triệu dụng và giao phó cho cụ Ngô Đình Khả trách nhiệm tổ chức và điều hành một cơ sở giáo dục cấp Quốc gia đúng theo đường lối và chủ trương của cụ. Trường Quốc Học Huế được thành lập từ đấy và cụ đã trở thành vị Chưởng giáo (tức là hiệu trưởng) đầu tiên của trường. Sau nầy, khi dựng bia kỷ niệm trường, giáo sư Tôn Thất Sa có bài thơ ghi ở bia như sau:
“Trường Quốc Học ấy ai xây dựng
Sáu mươi năm đứng vững giữa trời
Đế Kinh nhắc nhở tên người
Cụ Ngô Đình Khả muôn đời tiếng thơm …………………
Dựng bia kỷ niệm gọi là
Ghi ơn người trước, nhắn lời người sau”
(Trích Đặc san Tiếng sông Hương)
Người thứ hai trong vụ án mạng giết người nầy là Nguyễn Kim Thành, học sinh trường Quốc Học vào thập niên 30. Tên thì rất xa lạ, nhưng biệt hiệu Tố Hữu thì không ai là không biết. Vào thời gian đó, Tố Hữu giữ chức Trưởng ban Cách mạng ở Huế, và chính Tố Hữu đã nhận lịnh thủ tiêu ba nạn nhân nầy. Khi cụ Ngô Đình Khả giúp nhà vua ái quốc Thành Thái thiết lập ngôi trường đầu tiên theo Tây học để nâng cao dân trí hầu theo kịp các nước Âu châu, và chính cụ đã có công điều hành trường trong hai năm đầu, theo Tình tự Dân tộc, cụ những tưởng mình đã vun trồng cây đức để lại cho con cháu đời sau. Nhưng oan nghiệt thay! Năm mươi năm sau, chính Tố Hữu, người học sinh thụ nhận nền học vấn của trường, đã ra lịnh hạ sát dã man Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân là con và cháu của người đã sáng lập ngôi trường đó! Trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu Hồ Chí Minh mang tội giết vợ, Trường Chinh mang tội giết cha, Trần Văn Giàu mang tội giết bạn, thì Tố Hữu tránh sao khỏi tội hại thầy? Tất cả một phường phản phúc!
Về cụ Ngô Đình Khôi, tác giả Nguyễn Trân trong quyển Công và tội đã ghi vài hàng như sau (trang 29): “Sau khi Nhựt đảo chánh, cụ Ngô Đình Khôi đã có nhiều buổi họp với một số nhân vật Đế đô bàn định cách đối phó với tình hình mới. Tôi có dự mấy buổi họp ấy tại Gia Hội. Trong các người họp tôi còn nhớ có Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Kim Chi, Bác sĩ Thái Can và một số người nữa mà tôi không nhớ tên. Cụ Khôi được đề nghị đứng ra lập Chính phủ, nhưng cụ từ chối, nói cụ chỉ là một người của quan trường lại bị cách chức (vì chống Pháp). Cụ nói ông Ngô Đình Diệm là người cách mạng, đã nghiên cứu nhiều, có thể đảm đương trọng trách ấy.”
Kỳ ngộ đẹp ở An Cựu
Lúc đó, Ngô Đình Huân là một thanh niên ưu thời mẫn thế đang tìm phương cách để giúp nước. Trong quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tác giả Phương Lan đã ghi lại rằng Tạ Thu Thâu trên đường từ Nam ra Bắc có dừng chân ở Huế và có bàn luận việc nước với Ngô Đình Huân. Chính nữ sĩ Song Thu đã tổ chức buổi hội ngộ nầy và bảo với Tạ Thu Thâu rằng: “Ngô Đình Huân là một người rất tế nhị trong cách xã giao, có tấm lòng ngưỡng mộ ông, đang thao thức về phong trào nhân dân hiện tại cũng như ở tương lai và muốn bàn luận để tìm thế cứu nước”.
Hai người đã gặp nhau trong bữa cơm chiều thân mật do Ngô Đình Huân khoản đãi trong nhà một người thân ở An Cựu. Hai người yêu nước, Tạ Thu Thâu xuất thân là con một người thợ mộc nghèo khó ở tỉnh Long Xuyên và Ngô Đình Huân là ấm tử của một danh gia vọng tộc ở chốn Cố Đô Huế, hai người ưu tư vì vận nước, đã tìm gặp nhau để bàn cách thế cứu nước trong cuộc họp mặt lịch sử đó. Thật là một kỳ ngộ. Nhưng than ôi! chẳng bao lâu sau, cả hai đều bị Cộng sản sát hại. Bây giờ, khi viết những dòng chữ nầy, người viết vẫn ngậm ngùi khôn tả, khôn ngăn dòng tâm lệ thương tiếc những người yêu nước yểu mệnh vì bị Cộng sản sát hại, và lại khóc cho vận nước điêu linh. Với lòng thương cảm vô vàn khi ngoảnh nhìn lại lịch sử, người viết mơ tưởng với đầy hy vọng một Đại kỳ ngộ trong tương lai trên đất Việt của triệu triệu thanh niên Việt yêu nước, một Đại kỳ ngộ hướng tâm về cuộc Kỳ ngộ đầu tiên ở An Cựu năm 1945 trên quê hương thân yêu lúc không còn bóng dáng của những “Tam cùng Tam vô Bác Hồ vĩ đại Kominternchik...” Một Đại kỳ ngộ mà ý tưởng đấu tranh giai cấp hèn hạ tàn ác nhạt nhòa đi trong tình yêu thương bao la của những người con dân cùng chung một mẹ của Việt tộc!
Sáng đảng nhưng mù tình Dân tộc, Hồ Chí Minh và đồng bọn đã phạm vô vàn tội ác đối với Dân tộc. Nào phải đến thập niên 50 Việt Minh Cộng sản mới thi hành chánh sách trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ đâu, mà ngay những ngày mới vừa thành lập Đảng năm 1930, cho đến khi cướp được chính quyền năm 1945, khi quân đội Pháp chưa trở lại Việt Nam, thì chúng đã bắt đầu sát nhân hàng loạt để loại trừ địch thủ rồi. Và chính Hồ Chí Minh, lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc đã học sách lược nầy từ Lênin và Stalin hồi năm 1924 và được Đệ tam Quốc tế Komintern tuyển chọn, đào tạo, và ủy nhiệm trong chức vụ Quốc tế ủy Kominternchik rồi!
Sát hại nhà đại học giả Phạm Quỳnh
Trường hợp nhà đại học giả Phạm Quỳnh là một trường hợp đặc biệt vì Cộng sản đã sát hại ông và sau đó vì nhu cầu sống còn của Đảng, họ còn bôi bẩn thanh danh ông và gạt bỏ công trình lớn lao của ông trong Văn học (Trích bài Trường hợp Phạm Quỳnh của sử gia Trần Gia Phụng, trong Tuyển tập Giải oan lập một Đàn tràng, trang 320). Giết xong Phạm Quỳnh, Cộng sản còn tính việc huỷ diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà học giả Phạm Quỳnh. Cộng sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội phản quốc, làm tay sai cho Pháp. Gần 40 năm sau, trong bộ Từ điển Văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, do nhiều người viết và Ủy ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội, vẫn không có mục Phạm Quỳnh. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách này không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm này có khá nhiều tác giả nổi tiếng. Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi trong ban biên tập từ điển, vẫn gọi Phạm Quỳnh là bồi bút, phản động. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hoá Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục Phạm Quỳnh trang 578-579, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy Thực dân... Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lương yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở làng Hiền Sĩ, tỉnh Thừa Thiên, hưởng thọ 53 tuổi”.
Đó là những học giả văn nô trong nước viết theo lịnh Đảng để ngụy tạo lịch sử. Sự thật thì Phạm Quỳnh không bị xử bắn ở làng Hiền Sĩ mà bị đập vỡ sọ bằng xẻng cuốc một cách dã man và chôn ở rừng Hắc Thú. Ở quốc ngoại, đảng cũng không tha Phạm Quỳnh nên đạo diễn cho tạp chí Đi tới ở Canada ra số đặc biệt (tháng 9-1999) về chủ đề Phạm Quỳnh Văn hào và Chánh trị: Công hay tội. Lập lờ đánh lận con đen như bản tính của Cộng sản, tạp chí Đi tới cho đăng 4 bài mà hết 3 bài của 3 tác giả thân cộng, theo chiến pháp lấy 3 chọi 1, lấy thịt đè người (giáo sư văn khoa Nguyễn Văn Trung, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Tuấn và giáo sư sư phạm Nam Giao) cùng đứng chung ở vị trí đối kháng Phạm Quỳnh. Điểm đáng ghi nhận, là toà soạn đã tỏ thái độ trung dung tối thiểu đem đăng kèm bài báo của nhà văn Nhuệ Hồng (tức Luật sư Nguyễn Hữu Thống) dành sự tán thưởng cho công trình văn hoá ngày xưa của nhà học giả Phạm Quỳnh.
Chuyện hai trang giấy trắng
Đây là câu chuyện rất lý thú về Trang giấy trắng của học giả Phạm Quỳnh sánh với Trang giấy trắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng trên trang giấy trắng, đối chiếu phong cách của Phạm Quỳnh với hành tung của Hồ Chí Minh, Dân tộc mới phân biệt chính tà, thiện ác. Dân tộc mới rạch ròi ai là bậc tài cao học rộng mà vẫn bảo tồn và phát huy văn hóa của tiền nhân, còn ai là kẻ ngu hèn, vong bản theo Nga Tàu, cõng rước chủ nghĩa ngoại lai về tàn phá Đất nước, sát hại Dân tộc.
Đây, trang giấy trắng của Hồ Chí Minh. Trong quyển hồi ký Hoa xuyên tuyết của Bùi Tín viết với bút hiệu là Thành Tín và xuất bản ở Paris vào mùa thu 1991, tác giả Bùi Tín viết về “Trang giấy trắng của Hồ Chí Minh” như sau (Trích Hoa xuyên tuyết, trang 66): “Gần như trên một trang giấy trắng, chúng ta đã đổ lên một lọ mực tầu đen và ngộ nhận đó là ánh sáng!”
Cách ví von của Bùi Tín thật lý thú. Trang giấy trắng của Hồ Chí Minh là Dân tộc, hoặc là cuộc Cách mạng Mùa thu, lọ mực tầu là Tư tưởng Mao Trạch Đông cùng những sách lược tẩy não, chỉnh huấn, đấu tố, cải cách ruộng đất tai hại tàn phá Đất nước, sát hại Dân tộc. Đổ cả lọ mực tầu lên trang giấy trắng thì còn gì là giấy! Mà ai đã đổ? Vào năm 1991 Bùi Tín viết là “chúng ta”, nhưng Dân tộc biết thủ phạm đổ mực là người đã phát biểu câu “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”. Chính Bác Hồ vĩ đại đó! Năm 1951 Bác đã đổ cả lọ mực Tầu để phá hư cả trang giấy Việt Nam!
Trang giấy trắng của Hồ Chí Minh đã bị mực Tầu đổ lên như vậy hẳn là phải bị vất bỏ vào sọt rác! Còn “Trang giấy trắng của học giả Phạm Quỳnh” thì sao, xin mời quý bạn đọc tiếp (Trích bài Trường hợp Phạm Quỳnh của sử gia Trần Gia Phụng trong Tuyển tập Giải oan lập một Đàn tràng, trang 304): “Dân Việt Nam chúng tôi không thể ví như một trang giấy trắng được đâu. Chúng tôi là một quyển sách đầy chữ viết một thứ mực không phai. Quyển sách cổ ấy có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên những dòng chữ cũ được.”
Vào thời điểm đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo trẻ, tuổi ngoài 30, đúng ra ông đang là chủ bút tạp chí Nam Phong, được tháp tùng phái đoàn vua Khải Định sang Pháp. Ngày 22-7-1922 ông được mời diễn thuyết tại Hàn Lâm viện Pháp ở Paris. Trước các nhà trí thức hàng đầu của Pháp, học giả Phạm Quỳnh đã can trường phát biểu rằng trang giấy của Dân tộc đã đầy những chữ viết một thứ mực không phai và bảo rằng họ không thể nào viết một thứ chữ khác lên được. Điều mà Phạm Quỳnh muốn phát biểu là Pháp quốc có thể đem khoa học kỹ thuật phổ biến chớ không thể nào hủy diệt được truyền thống văn hóa của Dân tộc Việt Nam. Những điều học giả Phạm Quỳnh trình bày với các vị trong viện Hàn lâm của Pháp năm 1922 là nét chính của một nền quốc học mà sau này vào thời Đệ nhất Cộng hòa được Giáo sư Ưng Thiều diễn tả bằng câu đối chữ Hán chuyển sang Quốc ngữ như sau: Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt - Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm.
Giáo sư Ưng Thiều là giáo sư dạy trường Trung học Trương Vĩnh Ký và câu đối đầy ý nghĩa đó được trang trọng tô điểm trước cổng trường để nói lên phẩm chất của nền Quốc học vẹn toàn, vừa trau dồi đạo đức vun bồi nét đẹp của văn hóa ngàn đời trước, vừa phát triển khoa học kỷ thuật để theo kịp những quốc gia tiến bộ trên thế giới ngày nay. Câu đối đó không phải của riêng trường Trương Vĩnh Ký mà là tôn chỉ chung cho nền Quốc học của Dân tộc. Nhưng than ôi, câu đối dù hay dù đẹp mà nào có trường tồn được đâu! Sau khi cưỡng chiếm trọn cả Đất nước bằng bạo lực và tuyên truyền xảo trá, kẻ chiến thắng ngu dốt Lê Duẩn đã ra lịnh hủy bỏ Tôn chỉ Quốc học hay đẹp đó để thay thế bằng khẩu hiệu “Đoàn kết Đoàn kết Đại Đoàn kết - Thành công Thành công Đại Thành công”.
Khẩu hiệu chỉ nói lên tính gian xảo, hiểm độc, và khát máu của Đảng vì “Đoàn kết của Đảng” chỉ là chiêu bài ở ngoài miệng để ngầm sát hại ám toán những kẻ không theo mình và “Đại thành công” có nghĩa là các Đảng viên cao cấp trở thành tỷ phú Mỹ kim trong khi Đất nước và Dân tộc bị Đảng xô đạp xuống mức nghèo khổ ngang hàng các quốc gia nghèo đói ở châu Phi! Về khẩu hiệu kêu gọi “Đoàn kết”, tác giả Trần Nhu trong tác phẩm Địa ngục sình lầy, người tù bị Việt Cộng bắt giam lúc 18 tuổi đến năm 40 tuổi mới được thả, đã nhận xét rằng Hồ Chí Minh là nhân vật đã xử dụng ngôn từ “Đoàn kết” nhiều nhất trong lịch sử Dân tộc (Quyển Địa ngục sình lầy, tr. 113): “Nhưng không biết bao nhiêu cái đầu đã rơi theo kiểu đoàn kết của ông. Và ông đã thành công trong việc lội qua những suối máu, mà chân không dính máu”.
Nếu vào năm 1951 Hồ Chí Minh “đổ cả lọ mực Tàu lên trang giấy trắng” thì đến năm 1975, khi Lê Duẩn ra lịnh hủy bỏ câu đối: “Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt - Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm” để thay thế bằng câu: “Đoàn kết Đoàn kết Đại Đoàn kết - Thành công Thành công Đại Thành công” thì cũng ví như “mang giầy trận của Liên Xô dẫm nát vườn hoa Dân tộc để loài cỏ dại (cỏ Cụ Hồ) có cơ phát triển”. Toàn là những việc làm “ba chữ D: Dốt Dại Dối” như lời phê của giáo sư Phạm Thiều, người cũng là giáo sư đã dạy ở trường Trương Vĩnh Ký trước năm 1945, vào bưng theo Hồ Chí Minh kháng chiến, đến 1954 tập kết ra Bắc, nhưng sau cùng Giáo sư Phạm Thiều ân hận vì đã theo Việt cộng đánh phá Dân tộc, nên tự tìm lấy cái chết để lại “Lời phát biểu ba chữ D: Dốt Dại Dối” cho đảng Cộng sản Việt Nam.
Giết Giáo sư Dương Quảng Hàm
Một cựu học sinh kỳ cựu của trường Chu Văn An là Nguyễn Bát Tuấn trong bài Vài nét về trường trung học Bưởi – Chu Văn An đã viết (Bài đăng trong Đặc san Chu Văn An xuất bản tại Sydney năm 2002): “Trường Bưởi, tiền thân của Chu Văn An được khai sinh năm 1908... Ngày 1-10-1945 trường được hồi cư về Việt Nam Học xá và chừng một năm sau trường dọn về trường tiểu học Félix Faure”.
Ông viết tiếp rằng đến lúc đó thầy Nguyễn Gia Tường đã thay thầy Hoàng Cơ Nghị làm Hiệu trưởng và “Ngày 14-12-46 thầy Dương Quảng Hàm, vị giáo sư quốc văn nổi tiếng lên làm Hiệu trưởng. Nhưng chẳng may, đến ngày 26-12-46 thầy Hàm bị bắn chết trên sông bởi Cách mạng Mùa thu”.
Sử gia Cao Thế Dung viết về Lễ Tế cờ
Trong quyển sử Việt Nam ba mươi năm máu lửa, sử gia Cao Thế Dung viết (trang 47):
“Sau khi cướp được chính quyền, kéo cờ đỏ sao vàng trên Phủ Khâm Sai (sau đổi thành Bắc Bộ Phủ), kể từ ngày 20-8, một số cán bộ Cộng sản từ Thượng du về chỉ có một mục đích là đi lùng diệt đảng viên VNQDĐ, Đại Việt và các thành phần quốc gia khác, cho đến ngày 25-8, đội Giải phóng quân của Võ Nguyên Giáp mới kéo về Hà Nội. Trong thời gian từ 25-8 đến 2-9, Cộng sản lùng bắt và đem đi thủ tiêu hàng ngàn đảng viên quốc gia chủ yếu là Việt Quốc và Đại Việt”.
Để hiểu rõ thủ đoạn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, xin mời đọc tiếp (trang 49 sđd):
“Cộng sản vừa cướp được chính quyền là tổ chức guồng máy Công an ngay. Đầu tiên là chiếm sở Liêm phóng Bắc Bộ, đổi thành Nha Tổng giám đốc Công an. Bùi Văn Hạch tức Bùi Đức Minh, một cán bộ cao cấp của VNQDĐ, phản đảng theo Cộng sản từ bên Côn Minh, được Cộng sản trao cho chức Tổng giám đốc Công an để truy lùng và diệt đảng viên VNQDĐ mà trước đó là đồng chí của Hạch. Nhờ vậy, Công an của Cộng sản bắt đảng viên VNQDĐ rất chính xác nhờ có Hạch ở trong lòng Đảng. Trần Ngọc Tuân, một cán bộ cao cấp khác của VNQDĐ, phản đảng từ Hoa Nam theo Cộng sản đổi tên là Trần Xuân Sinh, được trao cho làm chủ bút nhật báo Cứu Quốc, có nhiệm vụ tuyên truyền bôi nhọ VNQDĐ và giới quốc gia”.
Trường Chinh sát hại cha mẹ và thân nhân
Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu có liên hệ về gia tộc với Bác sĩ Đặng Vũ Lạc làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Định. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là một vị bác sĩ kỳ cựu của Đông Dương, tốt nghiệp ở Pháp, đã điều hành dưỡng đường Henry Copin ở Hà Nội là nhà thương tư lớn nhất vào thuở ấy. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc cũng là người đề xướng thành lập Hội Bác sĩ Đông Dương. Nhà thương Henry Copin ở phố Hàng Cỏ, Hà Nội là nơi tụ hội của hàng ngũ đảng viên Đại Việt. Người em ruột của Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là Đặng Thị Khiêm, có chồng là Ông cả Nguyễn Tư Tề, nên thường được gọi là Bà cả Tề. Bà là Đảng viên điều hành Xứ bộ Bắc Việt của đảng. Khi Trường Chinh bị đuổi học về nhà đi lang thang, Bà Cả thưong tình con cháu đem về chăm sóc và lo việc vợ con và thăm nuôi những lần Trường Chinh bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò. Tác giả Quang Minh trong quyển sử Đại Việt Quốc dân đảng đã viết rằng hệ phái bên Bác sĩ Đặng Vũ Lạc học hành và làm ăn phát đạt nên được dân trong làng Hành Thiện và cả phủ Xuân Trường vị nể, nhưng (trang 19 sđd):
“Trái lại, Trường Chinh thì học hành không ra gì còn bị sa sút… cho nên có sự ganh tỵ ở địa phương đã lâu. Đến khi Cộng sản chiếm được chánh quyền, Trường Chinh ra lệnh thủ tiêu một lần bảy (07) người thanh niên trí thức của họ Đặng Vũ đã theo Đại Việt: 1- Đặng Vũ Căn, 2- Đặng Vũ Toại, 3- Đặng Vũ Lệ, 4- Đặng Vũ Kha, 5- Đặng Vũ Tân, 6- Đặng Vũ Định, 7- Đặng Vũ Úy.”
Riêng Đặng Vũ Trứ, con của Bác sĩ Đặng Vũ Lạc, Cộng sản đã bắt cóc ở Hà Nội để tạo áp lực với Bác sĩ Đặng Vũ Lạc, nhưng không được, nên chúng đem đi thủ tiêu ở Phú Thọ năm 1947. Lúc khởi đầu chiến dịch CCRĐ năm 1952, chính Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã đấu tố cả cha mẹ của mình khiến ngoài dân gian có câu vè truyền tụng (trích bài của Ban biên tập BNS Tự do Ngôn luận, số 40, ngày 1-12-2007): “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hoá, tội kia sách chép đứa tên Khu”.
Bài thơ Mẹ khóc con
Người mẹ là Bà cả Tề Đặng Thị Khiêm. Bà đã từng cưu mang đứa cháu Trường Chinh và bà còn bảo bọc những đảng viên Cộng sản khác lúc họ còn hoạt động bí mật. Bà đã đến Hỏa Lò và những nhà lao Lạng Sơn, Lào Kay để thăm nuôi Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng và nhiều người khác nữa. Khi họ được Pháp trả tự do, họ thường đến nhà bà để được cấp dưỡng thức ăn và tiền tiêu vặt. Bà cả Tề còn giúp 18 đồng bạc Đông Dương mỗi tháng để thuê căn nhà số 25 Phố Đường, Hà Nội làm cơ sở cho Đảng.
Bà cả Tề góa chồng rất sớm. Bà tảo tần nuôi đứa con trai duy nhất là anh Hạ. Ngay sau khi cướp chính quyền ngày 19-8-1945, anh Hạ bị Cộng sản bắt cóc và đánh anh dập phổi chết, lúc đó anh chỉ 20 tuổi. Anh Hạ bị sát hại vì Bà cả Tề là người điều hành Xứ bộ Bắc Việt của đảng Đại Việt và có thể con bà, anh Nguyễn Năng Hạ, cũng là đảng viên Đại Việt như mẹ. Bài thơ Mẹ khóc con như sau:
Dạy con lòng nén thân yêu
Mong con giác ngộ biết điều tới lui
Thiết tha yêu nước thương nòi
Sống đời tráng sĩ giúp người hy sinh
Giang tay dẹp nỗi bất bình
Thù nhà nợ nước hai tình vẹn hai
Cùng ta chia sẻ ngọt bùi
Lá xanh mà rụng ai người chẳng đau
Con hơn hai chục tuổi đầu
Thanh niên tiến thủ để hầu kịp ai
Mong con gươm nách súng vai
Để cùng ngoại địch so tài thấp cao
Chẳng thà chết chốn binh đao
Giang sơn góp mặt máu đào của ta
Thương con thương nước thương nhà
Thương dâu thương cháu ruột già quặn đau
(Câu lục này thất lạc)
Đàn em bị bắt dạ dầu như dưa
Nghĩ rằng Pháp Nhật thuở xưa
Khác nòi khác giống cũng chưa thế này
Việt Nam dân chủ đặt bày!
Đặng Thị Khiêm. Hà Nội cuối tháng Tám 1945
Bài thơ thật cảm động. Bà mẹ Đặng Thị Khiêm vừa khóc thương con bị Việt Cộng sát hại lại vừa tỏ nỗi lo lắng cho “đàn em” vì hôm đi đưa đám tang anh Hạ, một số anh em đồng chí Đại Việt bị Việt Cộng mai phục bắt. Sử gia Cao Thế Dung tường thuật câu chuyện trên để đặt “câu hỏi trước lương tâm nhân loại và cho người Cộng sản việt nam” (Trích Chân tướng Hồ Chí Minh, tác giả Cao Thế dung, trang 4 và 12). Về bài thơ, sử gia Cao Thế Dung viết thêm: “Bài thơ máu lệ của bà Đặng Thị Khiêm khóc con là chứng tích muôn đời về “luân lý Cộng sản”, thứ luân lý của những kẻ “qua sông đánh chìm đò” còn giết luôn cả người con duy nhất của chủ đò”.
Từ quyển Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ
Trong 5 vị thành lập Ủy ban Kiến quốc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Đình Dy và Lê Toàn (Ngô Đình Diệm làm lãnh tụ, bác sĩ Chữ làm phó) thì có 2 vị đã bị Cộng sản sát hại: Vũ Đình Dy bị Cộng sản xử tử năm 1945 và qua năm sau 1946, Vũ Văn An cũng bị xử tử trong điều kiện tương tự (Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, trang 18). Hai lãnh tụ quan trọng Quốc dân đảng là Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Thế Nghiệp mà Bác sĩ Chữ có được gặp mấy lần trong thời gian trước ngày Việt Minh đảo chính, đều bị cắt tiết ở Trèm Vẽ, xác thả trôi sông. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng tường thuật những cách giết người dã man của Hồ Chí Minh vào thời gian đó như sau (Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, trang 303): “Thời kỳ đầu, Việt Minh cầm chính quyền, cán bộ còn thiếu súng đạn. Chôn sống, cắt tiết, đành là những triệu chứng căm thù, cũng còn là những phương pháp tiết kiệm đạn. Ở đây, cắt tiết còn thêm moi gan trong những trường hợp giết vì thù cá nhân. Lại còn một thủ đoạn nữa, tàn nhẫn bội phần, là lấy búa bổ lên đầu người, như đồ tể bổ vào đầu vật.”
Thủ tiêu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Hà Nội
Trong bài viết Vài ký ức về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê và Tổng hội Sinh viên Việt Nam (Làng Văn, số 272 tháng 12-2007, trang 109), tác giả là Luật sư Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh đã đóng góp cho lịch sử thời Cách mạng Mùa thu một sử liệu rất quan trọng: Hồ Chí Minh đã khủng bố Tổng hội Sinh viên Hà Nội ngay từ lúc ban đầu. Đến Mùa Bịt Miệng 2007, tội ác của Hồ Chí Minh hiện rõ như ban ngày: người nào Hồ Chí Minh tuyên truyền móc nối được và gia nhập Cộng sản thì giữ được toàn mạng sống để phục vụ Đảng, kẻ nào đứng về phía Quốc gia Dân tộc thì bị sát hại không tiếc thương, mặc dầu là sinh viên không một tấc sắt trong tay! Người viết xin có lời tri ân Luật sư Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh và xin được trích đoạn sau đây:
“Khởi thủy, THSVVN là một tổ chức của giới trẻ yêu nước, phi đảng phái. Trong Hồi ký “Kỷ niệm thời niên thiếu”, đăng trong Tập san Áo Trắng, Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn viết: “Đến năm 1937, khi đang học ở trường Y khoa Hà Nội, tôi thấy cần phải tranh đấu mạnh hơn, phải hoạt động trong một hàng ngũ, có tổ chức quy củ, nên tôi đã dấn thân vào một đảng cách mạng, lao mình vào những hoạt động quy mô, những tổ chức bí mật, nguy hiểm bội phần để hy vọng giải thoát dân VN khỏi ách Thực dân”.
“Anh Hoàn đã tuyên thệ gia nhập đảng Đại Việt của Trương Tử Anh. Trong THSV anh giữ chức Trưởng ban Âm nhạc (sau này gọi là Ban Văn nghệ), nhưng người điều khiển ban nhạc thường là Trần Văn Khê. Phan Thanh Hòa, Chủ tịch THSV, về sau là anh vợ của Hoàn vì chị Phan Thị Bình là em ruột của Hòa. Chính Hoàn đã ghi trong tài liệu nêu trên rằng năm 1946, Hòa bị CS thủ tiêu vì Hoà công khai chống sứ giả của Hồ Chí Minh là hai anh em Phan Anh, Phan Mỹ đến dụ THSV nhập vào Mặt trận Việt Minh. Hòa tuyên bố Tổng hội đứng ngoài đảng phái. Phan Thanh Hòa thế Dương Đức Hiền trong chức Chủ tịch THSV”.
Về tình hình sau khi Phan Thanh Hòa bị thủ tiêu, Lâm Lễ Trinh viết tiếp: “Một thời gian sau, tổ chức này mau chống bị xích hoá. Đảng Tân Dân chủ của sinh viên xé làm hai. Một phần chống CS, qua hoạt động trong hàng ngũ quốc gia. Phần còn lại, trong đó có Phước, Tiểng, Bộ, Khê, Nguyễn Tấn Gi Trọng… ngã về phía Bắc Việt”.
Lời bàn: Tổng hội Sinh viên là những thanh thiếu niên trẻ, hồn nhiên, yêu nước, nhưng đã bị cuộc “Kách mệnh khát máu của Hồ Chí Minh” xâm nhập, làm ung thối, và đánh mất tình đoàn kết mà Dân tộc cần phải giữ cho vẹn toàn. Giữa lòng THSV đậm đà tình đồng môn thắm thiết, Hồ Chí Minh từ hang Pác Bó về đến Hà Nội đã đào sâu một chiến tuyến và đổ đầy máu của đồng bào để xẻ làm hai, gây ra cảnh nồi da xáo thịt! Điều đáng tiếc và đau thương vô cùng cho Đất nước là những sinh viên thật trí thức vào thuở đó như Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Trần Văn Khê, Nguyễn Tấn Gi Trọng… đã đi về phía KẺ CÓ BÀN TAY VẤY MÁU CỦA DÂN TỘC!
Những vụ sát nhân ở miền Trung do Nguyễn Trân ghi chép
Một nhân chứng khác là cụ Nguyễn Trân, trong tác phẩm Công và tội, đã kể lại chuyện hành quyết người chết và khủng bố tinh thần người sống như sau:
“Chỉ tiếng trống ngũ liên đánh từ sáng sớm đến tối đen trước cổng nhà giam cũng đủ làm đứng tim, trong lúc ba người bị đưa ra giết hai, còn một trở vào kể chuyện cho nghe: một cụ già đầu bạc trắng phơ bị chém, đầu rơi xuống nhuộm máu đỏ; một anh Cao Đài không cho cột tay chân mà ngồi vòng tay để cho chém, bảo giết được thể xác anh chớ không giết được linh hồn anh! Một gương anh hùng, lẫm liệt!
Các địa chủ phú nông bị giết một cách thê thảm. Dã man nhất là khi chồng bị giết, vợ phải đưa tay lên hoan nghênh, cũng như con khi cha bị giết. Có người bị bắt nhốt trong cũi heo để dân chúng dưới sự kích thích hay hiệu lệnh của cán bộ Việt Minh dùng lao cao vót nhọn (chớ không phải gươm giáo) mà đâm cho chết, có người bị chôn vùi mà chưa chết lên tiếng cầu xin: “Tôi chưa chết xin giết tôi đã”. Đó cũng là số phận được dành cho những kỳ hào hay những người có uy tín mà Việt Minh sợ dân chúng nghe theo hay những người Việt Minh nghi ngờ có thể chống lại chúng. Đàn bà con gái phải cắt cụt tóc khi nghe lệnh truyền cấp tốc mà hiểu lầm là cắt tóc.”
Ở trong Nam, nhà văn Xuân Vũ cũng tường thuật một vụ hiểu lầm vì bản văn của quận gởi xuống làng không bỏ dấu nên đã gây ra nhiều cái chết oan ức của người dân. Trong quyển Hồi ký Đường đi không đến, nhà văn viết như sau:
“Hồi kháng chiến ở làng tôi có một vụ động trời. Công văn đánh máy không có dấu. Vì trên quận muốn những cuộc bắt bớ xảy ra ban ngày để dân chúng khỏi sợ sệt nên dặn kỹ là có bắt ai thì chỉ bắt ban ngày, nhưng vì máy không có dấu nên thành ra bat ban ngay. Rồi ở dưới xã đọc là bắt bắn ngay. Cho nên CA cứ bắt lôi ra khỏi cửa là bùm liền. Có đến cả chục vụ như vậy, ở trên quận mới hay thì đã muộn rồi.”
Những vụ sát nhân do Giáo sư Lê Xuân Khoa ghi chép
Cũng ở miền Nam, công cuộc giết người yêu nước và dân lành vô tội trong Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh thật vô cùng khủng khiếp như lời ghi chép của Giáo sư Lê Xuân Khoa sau đây (Trích quyển Việt Nam 1945-1995, trang 69):
“Tại miền Nam, chiến dịch diệt trừ đối lập cũng được thi hành song song với miền Bắc ngay từ sau Cách mạng Tháng tám 1945. Những thủ lãnh Đệ tứ Quốc tế như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch đều bị thủ tiêu. Nhiều lãnh tụ chính trị không Cộng sản của Mặt trận Quốc gia Thống nhất (thành lập ngày 14 tháng 08) như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, và hai vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký cũng bị giết, mặc dù đã kết hợp với Việt Minh để lập thành Ủy ban Hành chánh Nam Bộ (4 tháng 09). Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ đảng Lập Hiến, năm đó đã 72 tuổi và không còn hoạt động chính trị, bị bắt cùng bốn người con trai đem đi thủ tiêu, đứa con út chỉ mới 16 tuổi. Cuộc truy lùng và diệt trừ đối lập ở miền Nam còn tiếp tục sau khi các lực lượng đảng phái quốc gia ở miền Bắc đã bị quét sạch. Đáng kể nhất là các vụ tàn sát các chức sắc, tín đồ và binh sĩ của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo. Theo tài liệu của hai tôn giáo này, tổng số người bị giết lên đến hai chục ngàn người. Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ bị bắt cóc và thủ tiêu năm 1947. Phối sư Thượng Vinh Quang Trần Quang Vinh Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài, bị bắt tháng 10-1945 nhưng trốn thoát tháng 01-1946, sau đó tham gia vào chính phủ Nguyễn Văn Xuân (1948), Ngô Đình Diệm (1954) và Thượng Hội đồng Quốc gia (1965). Theo tin tức của thân nhân tị nạn ở Hoa Kỳ, Phối sư Trần Quang Vinh bị chính quyền cộng sản bắt và xử tử vào tháng 09-1975.”
Ở Huế: đụng đâu bắt đó, hai hàng lụy rơi
Những vụ khủng bố, bắt bớ, và thủ tiêu ở Huế được Nguyễn Minh Cần trả lời hãng Thông tấn VNN do Võ Triều Sơn phỏng vấn như sau: “Quả là sau cuộc khởi nghĩa, ở Huế và Thừa Thiên đã xảy ra một số vụ khủng bố của Việt Minh. Nói chung, người ta giấu rất kín các vụ này... Các vụ bắt bớ đều rất bí mật, ít ai được biết, nhưng chắc cũng đã gây ra bầu không khí hoảng sợ trong dân chúng. Tôi suy luận như thế, vì hồi năm 1946 tình cờ chính tôi cũng có nghe câu vè truyền khẩu ở Huế, đại loại như: “Xe xanh, cờ đỏ, sao vàng. Đụng đâu bắt đó, hai hàng lụy rơi”. Hồi đó, xe của công an Trung bộ sơn màu xanh có cắm cờ đỏ sao vàng, đối với dân chúng Huế, là biểu tượng không mấy hiền lành.”
Công an Việt Cộng Liên khu V “làm việc”
Để đàn áp phong trào Đại Việt, Công an Cộng sản ở Liên khu V phối hợp cùng Cộng sản ở Phú Yên đã mời đi họp và bắt giam các đảng viên Đại Việt ở Phú Yên là Trương Soạn, Huỳnh Anh, Trương Dụng Quyền, Phan Dùng, Trương Lịnh, và Huỳnh Tất. Đảng viên Trương Ký thuộc Trung ương Đảng bộ ở Hà Nội về Phú Yên liên lạc cũng bị Việt Cộng vây bắt tại Mỹ Thạnh đem về thị xã Tuy Hòa tra khảo và khai thác. Ngày 4 tháng 3 năm Bính Tuất (1946), tất cả đều bị thủ tiêu (chôn sống) ở vùng Phước Hậu, Liên Trì, xã Hòa Kiến. (Tài liệu trích từ quyển sử Đại Việt Quốc dân đảng, tác giả Quang Minh, tr. 51).
Từ băng CD Thơ Bích Ty 2
Với Nghệ thuật diễn ngâm của Bích Ty và Hà Phương (Băng thơ Bích Ty 2, do Trung tâm Bích Thu Vân ở California phát hành), chúng ta thưởng thức những vần thơ tuyệt tác của thi họa sĩ tài hoa Vũ Hối, đồng thời cảm thán trước gương hy sinh của gia đình cách mạng họ Vũ có 20 người bị Cộng sản sát hại. Xin mời nghe băng thơ:
“Bên ngoại Vũ Hối là dòng dõi cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Tiên Phước, thân sinh là một bậc túc nho đầy khí tiết, tinh thần kiên cường bất khuất trước bạo tàn của CS, mẹ là một bậc hiền mẫu rộng lòng bác ái được khắp xóm làng ca ngợi. Trong gia tộc có đến 20 người bị Cộng sản sát hại từ 1945, trong đó có những nhà cách mạng như Vũ Tài, Vũ Tục, v.v… đã hy sinh tánh mạng năm 1946, và người anh đầu của Vũ Hối là Vũ Khôi bị CS ám hại tàn khốc năm 1964. Người anh kế là Giáo sư Vũ Ký là một bậc lão thành cách mạng và nhà Văn học đã vào tù ra khám bao lần mà thành tích đấu tranh được ghi danh long trọng”.
Nạn nhân: một anh tài trong Hoàng tộc
Trong quyển Tạp bút Một thời Hoàng tộc, tác giả Bảo Thái có thuật chuyện một Mệ trong hoàng tộc là nạn nhân của Lễ Tế cờ như sau (Trích Một thời Hoàng tộc, trang 70):
“Mệ Bửu Tuyển là em hàng thúc bá với nội tổ của tôi, cũng là con cháu thuộc phủ Vĩnh Tường. Là con nhà vệ sĩ, chính Mệ là người đứng ra thành lập Hội Quyền anh Thừa Thiên vào thập niên 1940. Môn đệ của Mệ có hàng trăm người trong đó có những người nổi tiếng như các võ sĩ Vĩnh Tiên, Thạch Mai, La Kim Thân, Trần Đình Thêm, Thạch Sơn, Mã Siêu Tử... Chính Mệ cũng là người mở trường dạy tiếng Nhật trước phong trào học tiếng Nhật lên cao ở Huế vào dạo ấy. Sau khi cướp chính quyền, Việt Minh bắt Mệ đi mất tích. Về sau nầy gia đình được biết Mệ đã bị chúng đem thủ tiêu tại Nghệ An.”
Lưỡi hái tử thần đi qua Quảng Ngãi
Lễ Tế cờ ở tỉnh Quảng Ngãi được tác giả Nguyễn Văn Thiệt thuật lại trong bài Tôi thấy Tạ Thu Thâu chết, đăng trong tuần báo Hồn Nước số 7 ngày 30-7 và số 8 ngày 7-8-1949. Bài viết nầy được tác giả Đặng Văn Long sưu tầm trong quyển Người Việt ở Pháp 1940-1954 (trang 477):
“Ai đi ngang Quảng Ngãi vào khoảng tháng 9-1945, cũng biết đến không khí hãi hùng của cái thành phố tự cho mình có tinh thần cách mạng cao ấy. Các tín đồ Cao Đài, các nhà trí thức, các nhà phú hộ, các nhà cách mạng quốc gia, tất cả những hạng người ấy cùng với vợ, con, anh em họ được Việt Minh cẩn thận chém giết, chôn sống, thiêu cháy, mổ bụng v.v… mỗi ngày theo chính sách Tru di tam tộc để trừ hậu họa. Người chết nhiều đến nỗi độ ấy ở Hà Nội, tờ báo Gió Mới của Tổng hội Sinh viên, một tờ báo rất thiên Việt Minh đã phải lên tiếng rằng: “Ở Quảng Ngãi, ngày ngày đầu người rụng như sung””.
Cũng trong bài viết đó, tác giả Nguyễn Văn Thiệt nói về cái chết của bạn anh tên Lê Xán như sau: “Anh Lê Xán, bạn tôi, một đồ đệ của cụ Phan Bội Châu, bị Pháp đày Lao Bảo vừa được thả ra thì bị Việt Minh Quảng Ngãi bắt lại và bị xử tử.”
Nguyễn Văn Thiệt cũng thuật chuyện ba người con trai của Tổng đốc Nguyễn Hy bị bắt vì tội “trong thời kỳ Cách mạng toàn dân mà trong nhà chứa đờn và bài ca ủy mị”. Cả ba người đó đã bị xử tử một tuần lễ sau khi anh Thiệt đến Quảng Ngãi.
Vì sao Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ bỏ kháng chiến
Về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người thành lập Đệ nhị Cộng hòa năm 1965, thì 20 năm trước, tức năm 1945, ông cũng tham gia cao trào toàn dân kháng chiến chống Pháp. Nhờ có tài về quân sự, nên ông đã được đảm nhận chức Huyện Đội trưởng. Nhưng sau đó, ông từ bỏ hàng ngũ kháng chiến bởi vì cán bộ Việt Minh đã ám sát những thành phần đối lập và triệt tiêu hội đồng bô lão trong làng của ông (Trích Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ của Stephen B. Young, Nguyễn Vạn Hùng chuyển ngữ, trang103).
Vụ sát hại Tín đồ Cao Đài ở Quảng Nam và Quảng Ngãi
Trích từ Bạch thư Cao Đài giáo do Giáo hữu Ngọc Sách Thanh phổ biến ở California, Hoa kỳ, ngày 9-4-1999, các tín hữu Cao Đài ở những tỉnh phía nam Trung phần đã gánh chịu tai ách về Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh như sau:
“Trong suốt ba tuần lễ từ 19-8-1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi, đã có 2.791 Chức sắc, Chức việc và Tín hữu Cao Đài đã bị những người Cộng sản Việt Nam sát hại bằng đủ mọi cách, như chém đầu, chôn sống, thả biển và cả hình thức tùng xẻo như thời Trung cổ. Trong đó có các vị Chức sắc cao cấp như Đức Liễu Tâm Chơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo sư Lê Đức, Giáo sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu, v.v… Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cùng năm nhân sĩ khác bị giết tại Làng Bầu, Quảng Nam.
“Việc sát hại tập thể người Cao Đài này vì lẽ họ không chối bỏ đức tin Thượng Đế, Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Đây là lệnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành sự chém giết tại Quảng Ngãi; còn Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng thi hành tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Hơn thế nữa, họ còn tiêu diệt chôn sống nhà trí thức nổi tiếng Tạ Thu Thâu, quý Nhân sĩ chân chánh quốc gia như các ông Cao Văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhãn, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chánh kiến khác cũng bị giết hại tại Quảng Ngãi tháng 8-1945.”
Vụ Thiên An Môn Cần Thơ
Biến cố Thiên An Môn ở Bắc Kinh xảy ra vào khoảng tháng 6-1989 do việc Trung Cộng dùng xe tăng và xả súng bắn vào 200.000 sinh viên và công nhân biểu tình bất bạo động đòi dân chủ. Trung Quốc vĩ đại, cuộc đàn áp Thiên An Môn vĩ đại, số thương vong cũng vĩ đại gây thương tâm khắp thế giới: 3.000 người chết, 10.000 người bị thương, 1.500 người bị bắt, 4.000 người bị truy nã, 12 người bị kết án tử hình.
Viết lại lịch sử, người viết xin dùng từ “Thiên An Môn” để nói về biến cố ở Cần Thơ xảy ra vào ngày 9-9-1945 (Than ôi! Chỉ có 7 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập bịp bợm ở Hà Nội!). Thiên An Môn Cần Thơ là tội ác do Việt Minh Cộng sản xả súng máy bắn vào những tín đồ Hòa Hảo biểu tình bất bạo động đòi hỏi Trần Văn Giàu phải dân chủ hóa trong công cuộc kháng chiến chống Pháp chớ không được độc quyền yêu nước. Đây là cuộc biểu tình chống Cộng sản độc tài đầu tiên trong lịch sử Dân tộc Việt Nam. Đó là hậu quả tất nhiên gây ra do việc Trần Văn Giàu cướp chính quyền ngày 25-8-1945 ở Nam Bộ, thành lập Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ (gồm 9 ủy viên, trong đó 8 ủy viên là Cộng sản và thân cộng), để gạt ra ngoài Mặt trận Quốc gia Thống nhất.
Xin nhắc lại sau khi Mỹ thả trái bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6-8-1945, nội các Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8-1945, và Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15-8-1945. Để đối phó với tình trạng vô chính phủ, các tổ chức tranh đấu ở miền Nam hợp lại thành lập 4 Sư đoàn Dân quân và Mặt trận Quốc gia Thống nhất ra đời. Thành phần bốn Sư đoàn Dân quân gồm có: lực lượng Bình Xuyên và cựu quân nhân Pháp và Nhật (Sư đoàn 1), 3.000 binh sĩ Cao Đài trong tổ chức Heiho (Sư đoàn 2), Dân quốc quân (VNQDĐ) do Nguyễn Hòa Hiệp và Phạm Hữu Đức (Sư đoàn 3), và các Bảo an đoàn của Phật giáo Hòa Hảo (Sư đoàn 4). Mặt trận tượng trưng cho sự đoàn kết nên nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của quần chúng khắp miền Nam. Chính Trần Văn Giàu cũng xin gia nhập và Mặt trận đã chấp nhận sự tham gia của Trần Văn Giàu để có sự đoàn kết rộng rãi hầu đối phó hữu hiệu với thời cuộc.
Rồi bỗng nhiên, không tham khảo ý kiến của những vị lãnh đạo trong Mặt trận Quốc gia Thống nhất, chỉ hai ngày sau đó, Trần Văn Giàu cùng đám Cộng sản Đệ tam Quốc tế ngang nhiên thành lập Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ tập trung tất cả quyền hành vào trong tay mình để khởi đầu cho nền độc tài chuyên chính vô sản và một màn chém giết thủ tiêu đối lập rùng rợn khắp cả miền Nam. Nếu tội ác có thể nẩy nở lây lan như loài vi khuẩn, thì Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ của Trần Văn Giàu chính là tội ác mẹ đẻ ra Thiên An Môn Cần Thơ và vô số tội ác con xảy ra sau đó.
Thật đúng vậy, khi các tín đồ Hòa Hảo kéo đến Tòa Hành chánh Cần Thơ để chống Độc tài Đảng trị và đòi dân chủ hóa trong công cuộc Kháng chiến chống Pháp, họ bị vu cáo là “Nổi loạn chiếm tỉnh Cần Thơ” trong khi họ biểu tình bất bạo động và không mang vũ khí. Ba người đại diện của họ vào Tòa Hành chánh để thương thuyết là Huỳnh Thạnh Mậu bào đệ Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trần Văn Hoành trưởng nam ông Trần Văn Soái, và Nguyễn Xuân Thiếp tức thi sĩ Việt Châu, người anh con nhà bác của học giả Nguyễn Hiến Lê, cả ba người đều bị bắt giữ làm con tin. Không thả ba người đại diện vào thương thuyết, Việt Minh Cộng sản mà cốt lõi là Cộng sản Đệ tam, lại còn xả súng bắn vào những người biểu tình bất bạo động. Tác giả quyển Ma đầu Hồ Chí Minh là Hoàng Quốc Kỳ chép lại lời khoe của một tay súng Cộng sản như sau:
“Trong khi Hồ Chí Minh tuyên bố Tự do Tôn giáo thì một cán bộ Cộng sản tên Nguyễn Văn Nghệ, một tay súng tiểu liên đầu đàn của Việt Minh tường thuật lại thủ đoạn của y và đồng đội với tín hữu Hòa Hảo như sau: “Tụi Hòa Hảo gan cùng mình. Lớp này ngã xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến run cả tay, máu loang hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần, nhưng lệnh bắt phải bắn tiếp…”
Một nhân chứng là Vy Thanh, lúc đó là học sinh vừa đậu bằng Tiểu học và đang học lớp đệ nhứt niên ban Trung học, lén cha mẹ chạy theo đám biểu tình để xem. Về sau, khi tỵ nạn trên đất Mỹ, Vy Thanh là tác giả quyển Lớn lên với Đất nước và đã viết về những điều anh chứng kiến đối chiếu với những tài liệu của Đảng viết để ngụy tạo lịch sử như sau (Lớn lên với Đất nước, trang 419): “Con số bị thương và chết vì súng đạn hôm đó thực sự không ai biết chắc (ngoài các người Cộng sản chỉ huy trận tàn sát ngày 9-9-1945). Nhưng căn cứ theo tài liệu của Bộ Chỉ guy Quân sự tỉnh Cần Thơ, người đọc hẳn thấy Cộng sản đã ghi lại “sự thật” qua mấy chữ “không thật” trong dấu ngoặc “3 người chết, 27 người bị thương, không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối!”
Nhân chứng Vy Thanh viết tiếp rằng trước mắt anh hôm đó ngoài bốn người trúng đạn súng liên thanh chết tại chỗ, còn thấy một người cõng người đã chết đang chạy bỗng ngã quỵ vì bị đạn trúng chân.
Biến cố Thiên An Môn Cần Thơ xảy ra trên 60 năm, không ai biết chính xác số người tử nạn là bao nhiêu, nhưng tài liệu Việt Cộng ghi lại “3 người chết, 27 người bị thương, không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối” thì thật VẸM vô cùng, không thể nào tin được! Còn nhân chứng là cậu bé Vy Thanh, vừa mới nghe súng nổ đã vội chạy đi mất, không chứng kiến trọn cuộc. Do đó con số 4 người chết tại chỗ thêm 1 người chết được cõng đi, tức là 5 người mà Vy Thanh đã thấy, hẳn không phản ánh đúng sự thật! Hãy đọc lại lời khoe của tay súng Việt cộng Nguyễn Văn Nghệ, do tác giả Hoàng Quốc Kỳ ghi lại trong quyển Ma đầu HCM: “Tụi Hòa Hảo gan cùng mình. Lớp nầy ngã xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến run cả tay, máu loang hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần, nhưng lệnh bắt phải bắn tiếp.”
Súng đạn mà được xử dụng như vậy thì số tử thương hẳn phải hàng chục hoặc hàng trăm! Hơn nữa, sự kiện Việt Cộng bắt giam 3 người đại diện PGHH vào thương thuyết mà không trả tự do, hẳn chúng phải dùng biện pháp đàn áp thật mạnh gây tổn thất lớn lao mới giải tán được đám biểu tình! Số tử nạn vụ Thiên An Môn Cần Thơ hẳn phải đến hàng trăm!
Trong quyển sử Việt Nam ba mươi năm máu lửa, sử gia Cao Thế Dung viết (trang 73): “Đầu tháng 9, PGHH đụng độ dữ dội với Việt Minh. Ngày 8-9, Hòa Hảo dự định tổ chức biểu tình tại Cần Thơ với mục đích biểu dương lực lượng chống Pháp, ban tổ chức đã xin phép Ủy ban Hành chánh Cần Thơ. Song do chỉ thị của nhóm CS và Trần Văn Giàu từ Sài Gòn, CS tung tin “Hòa Hảo đảo chính Cần Thơ” Lực lượng võ trang của Thanh niên Tiền phong mai phục sẵn bên sông và các con đường vào tỉnh. Cuộc đụng độ đẫm máu đã xảy ra sau đó, Hòa Hảo bị bắn chết và bị thương hàng trăm người. Thanh niên Tiền phong được võ trang bằng súng của Nhật mà Phạm Ngọc Thạch đã xin được sau ngày Nhật đầu hàng bởi Thạch cộng tác chặt chẽ với Thống đốc Minoda trong thời gian Thạch lãnh đạo TNTP.”
Khoảng một tháng sau biến cố đẫm máu đó, vào ngày 7-10-1945, ba vị đại diện Hòa Hảo bị đem ra xử tử tại vận động trường Cần Thơ. Viết lại lịch sử, Dân tộc sẽ ghi nhận tên tuổi của ba vị Huỳnh Thạnh Mậu, Trần Văn Hoành, và Nguyễn Xuân Thiếp là những chiến sĩ hy sinh đầu tiên trong công cuộc chống Độc tài Đảng trị ngay khi Cộng sản Đệ tam Quốc tế vừa nắm được chánh quyền ở miền Nam.
Vài hàng Nhật ký về Thiên An Môn Cần Thơ ghi lại máu và lệ của Phật giáo Tứ ân
- 19-8-1945 Hồ Chí Minh cướp chánh quyền ở Bắc Bộ.
- 23-8-1945 Nam Bộ thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất để chống Pháp
- 25-8-1945 Trần Văn Giàu cướp chánh quyền ở Nam Bộ và Lâm ủy Hành chánh Kháng chiến ra đời gạt bỏ Mặt trận Quốc gia Thống nhất.
- 2-9-1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội.
- 8-9-1945 PGHH biểu tình chống độc tài và đòi dân chủ hóa trong công cuộc Kháng chiến chống Pháp. Đây là cuộc biểu tình chống độc tài đầu tiên trong lịch sử Dân tộc VN.
- 9-9-1945 Việt Cộng đàn áp cuộc biểu tình gây ra cảnh đổ máu Thiên An Môn Cần Thơ.
- 7-10-1945 Ba vị Đại diện Phật giáo Hòa Hảo bị Việt Cộng xử tử!
Sau khi Việt Minh Cộng sản xử tử 3 vị đại diện PGHH, thì mức độ nồi da xáo thịt ở miền Hậu Giang tăng gia mãnh liệt. Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những ngày qua (trang 118) đã viết như sau: “Cộng sản sau đó đã khủng bố dữ dội các tín đồ vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh, Sa Đéc… Hơn 10 ngàn người đã bị giết và chôn tập thể ở các cánh đồng xa xôi trong Đồng Tháp Mười. Những người còn sống sót nay đã bắt đầu tố cáo các việc nêu trên và chỉ điểm các nơi chôn. Phản ứng của Hòa Hảo cũng rất mãnh liệt và cán bộ Cộng sản cũng bị giết hại không ít.”
Những vụ sát nhân do Nguyễn Long Thành Nam ghi chép
Tường thuật phong trào sát nhân hàng loạt ở miền Nam, trong quyển Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử Dân tộc (trang 364), tác giả Nguyễn Long Thành Nam đã làm sống lại thời gian khủng khiếp đó như sau:
“Giết Việt gian là một phong trào có chánh sách, có chủ trương. Đối với dân chúng, đó là áp lực để mọi người phải tuân lịnh trung thành với Việt Minh. Đối với lãnh tụ và cán bộ đối lập, đó là phương cách tiêu diệt trừ hậu hoạn. Có thể nói chánh sách“Việt gian” tại miền Nam khởi đầu từ bản thông cáo của Trần Văn Giàu được đăng tải trên các báo sáng ngày 8-9-1945:
Đây là Thông cáo Chánh phủ Lâm thời: Chánh phủ Lâm thời Nam bộ đang dự bị lập Ủy ban điều tra mỗi tỉnh, mục đích là xem xét và tố cáo bọn phản quốc. Bọn nầy sẽ bị tòa án nhân dân trừng trị, và tài sản của họ bị tịch thu, ruộng đất của họ bị lấy lại mà cho dân nghèo”.
Tác giả Nguyễn Long Thành Nam thuật tiếp rằng sau thông cáo đó, phong trào bắt giết Việt gian được phát động khắp nơi, những ai đối lập với Cộng sản là bị thủ tiêu. Trước hết là nhóm Đệ tứ, rồi đến những ai biết bề trái của Trần Văn Giàu, rồi mới đến những người đối lập bị khép tội Việt gian. Trong đợt tàn sát đầu tiên từ khi chiến sự bùng nổ ở miền Nam, những lãnh tụ tên tuổi sau đây đã bị giết: Dương Văn Giáo, Hồ Văn Ngà, Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Thị Sương, Bùi Quang Chiêu, Lê Kim Tỵ, Lâm Ngọc Đường, Trương Lập Tạo… và các lãnh tụ Đệ tứ. Ngoài ra các cán bộ trung cấp của Mặt trận Quốc gia Thống nhất cũng bị hạ sát rất nhiều, con số 2.500 của ông Trịnh Hưng Ngẫu đưa ra không xa sự thật.
Theo tác giả Nguyễn Long Thành Nam thì số người bị giết trong hai tôn giáo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo năm 1945 lên đến trên mười ngàn, nhưng vì xảy ra tại các vùng nông thôn hẻo lánh, cho nên báo chí không đăng và dư luận trong nước ngoài nước không khám phá ra được.
Về cái chết của Lâm Ngọc Đường, trong bài Tiểu sử cụ Trần Văn Ân, tác giả Nguyễn Hoài Vân viết như sau: “Ông cô thế, bị Cộng sản vây bắt, đóng nọc vào mắt, tai, mũi, miệng, hậu môn, hành hạ ông đến hơi thở cuối cùng”.
Vụ sát hại sông Lòng Sông
Nhắc lại thời điểm 23-9-1945 ngày Nam bộ Kháng chiến, khi quân Pháp trở lại tái chiếm Sài Gòn, nhóm Đệ tứ đã tập hợp các toán võ trang để chống cự. Trong khi nhóm Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn kéo khỏi Sài Gòn đi về phía Bình Chánh, Tân An thì nhóm võ trang Đệ tứ tập trung và lập bản doanh ở vùng suối Xuân Trường, Thủ Đức. Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những ngày qua tường thuật vụ ra tay hèn hạ của nhóm Đệ tam của Trần Văn Giàu như sau (trang 130 sđd):
“Bộ đội của Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai thay vì lo đánh Pháp lại tìm cách bao vây giải giới nhóm này với chủ trương để thống nhất bộ đội võ trang. Nhiều người trong nhóm võ trang Đệ tứ đã không đồng ý cho giải giới, nhưng nhiều người khác lại không muốn có chuyện đổ máu giữa người Việt với nhau. Cuối cùng 64 người trên 68 có mặt hôm ấy bỏ thăm chịu ở lại, chấp thuận chịu cho giải giới. Những liệt sĩ này không ngờ là họ đã tự trói tay để sau này bị giết tập thể ở sông Lòng Sông ở Phan Thiết.” Trong số 64 người bị giết ở địa điểm sông Lòng Sông này, có 2 người nổi tiếng là Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch.
Tác giả Hứa Hoành tường thuật
Bằng cách thu thập tài liệu theo lời kể của những nhân chứng ở miền Nam vào lúc đó, trong bài Việt Minh Cộng sản cướp công kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, Hứa Hoành thuật lại những thủ đoạn ám sát khủng bố như sau:
“Từ ý nghĩa cuộc chiến tranh Vệ quốc, chống lại kẻ thù trở thành xâm lăng là Pháp, bọn Cộng sản chỉ hô hào, tuyên truyền để giành lấy chính nghĩa, rồi đêm đêm tìm cách bắt những người nào chống lại chúng, thủ tiêu. Ban ngày chúng mời đến họp, thành lập ủy ban, ban đêm chúng gõ cửa dẫn đi mất. Mấy ngày sau, xác nạn nhân sình thối trôi nổi trên sông. Thời kỳ đó Việt Minh khủng bố còn hãi hùng hơn cả Thực dân. Chúng bắt người bỏ vào bao bố, trấn nước cho chết gọi là mò tôm, hoặc bắt người mổ bụng dồn trấu, với tội danh mơ hồ Việt gian, hoặc không bao giờ kết tội gì cả.”
Trong bài Dưa hấu Trà Bang (do Nguyệt san Làng Văn số 101 tháng 1-1993), tác giả Hứa Hoành nói về địa danh Ba Động, vùng đất ven biển của tỉnh Trà Vinh, là do nơi đó có 3 đụn cát gió thổi bồi lên nên dân chúng mới gọi là Ba Động. Tác giả Hứa Hoành viết:
“Ba Động có một con sông chảy ngang qua, song song với bờ biển. Năm 1936, Pháp cho bắc cây cầu sắt nối liền với nhà nghỉ mát của họ mới xây ngoài bờ biển. Năm 1946, Cộng sản lấy danh nghĩa “tiêu thổ kháng chiến” để phá sụp cầu, đến nay cũng không bắc lại được. Con sông Ba Động từng chứng kiến cảnh giết người man rợ của Cộng sản. Chúng bắt các nhân sĩ yêu nước thuộc Phật giáo Hòa Hảo như Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiện, Võ Văn Thời, Lâm Thành Nguyên… đem neo dưới nước cho chết ngộp. Riêng ông Lâm Thành Nguyên may mắn tự mở trói được, trong đêm tối lẩn trốn trong các bụi rậm thoát hiểm.”
Cách giết người gọi là mò tôm trên đây, có lẽ phổ biến khắp nước. Ở miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ nghe một người học trò lớp y tá của ông trò chuyện với các bạn học và viết lại trong Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ như sau: “Thày mà Quốc dân Đảng, cũng tôm cả thày”. Thời Việt Cộng, nói “Cho thầy đi mò tôm” chi cho dài. Phải nói ngắn gọn “Tôm cả thầy” thì mới “trình độ” hơn!
Bản cáo trạng của cụ Phan Thanh Nhãn
Tham khảo bài viết CSVN đã từng giết tập thể tín đồ PGHH của tác giả Nguyễn Huỳnh Mai, bài đăng ở Thương nghiệp Tuần báo số 106, ngày 12-8-1999.
Ngày 25-7-1999, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cụ Phan Thanh Nhãn, lúc đó 84 tuổi cư ngụ tại Garden Grove, tiểu bang California, đã viết Thỉnh nguyện thơ gởi Quốc hội, các cơ quan Lập pháp và Hành pháp Hoa Kỳ, các cơ quan Nhân quyền và Truyền thông Quốc tế tố cáo tội ác Việt Cộng như sau:
1- Cộng sản giết người và chôn trong những hầm chôn tập thể. Ở xã Tân An gần nhà cụ có 2 hầm chôn 400 người. Tại xã Mỹ Ngãi, rạch ông Cả Điền quận Cao Lãnh có 4 hầm, trong đó có 3 hầm chứa 180 người chết vì đạo. Hai hầm khác chôn 652 người tại xã Tân Thành quận Tân Hồng (là hai quận cũ Tân Châu và Hồng Ngự nhập lại). Riêng 9 hầm nữa, cụ Nhãn không biết rõ số người, tại đình Long Thuận xã Long Thuận tỉnh Long Xuyên.
2- Riêng về gia đình cụ có 15 người là cha mẹ, anh em, và bà con ruột thịt trong nhóm bị bắt 115 người. Tất cả bị trói tréo tay sau lưng bằng dây chì và chở trên chiếc ghe cà dom vào rạch Cá Gừa xã Mỹ Ngãi quận Cao Lãnh tỉnh Sa Đéc (cũ), nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, đến 3 cái hầm lớn đã đào sẵn. Theo nhân chứng còn sống sót kể lại, thì Cộng sản đem từng người đến miệng hầm, dùng dao găm đâm vào hang cua ở cần cổ rồi đạp cho rớt xuống hầm. Nếu có ai còn sống bò dậy thì chúng lấy chày vồ đập vào đầu rồi xô trở xuống, sau cùng lấp đất lại. Vào lúc cụ Nhãn viết Thỉnh nguyện thơ nầy, cụ cho biết hai tên hung thủ tham gia cuộc tàn sát là tên Quắn đã chết và tên Năm Hỉ lúc đó còn sống và ngụ tại chợ Trần Quốc Toản, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
3- Cụ Phan Thanh Nhãn đau lòng nói rằng em gái cụ là người ăn chay trường, mặc y phục màu dà, và tu theo Phật giáo Hòa Hảo, vì xinh đẹp nên bị ba tên thay phiên nhau hãm hiếp! Sau đó chúng mổ bụng lấy gan làm đồ nhậu tại nhà Nguyễn Xuân Vinh, tại xã Tân An Cao Lãnh. Cha mẹ ông vì thương con bị hãm hiếp, đã kêu la nên cũng bị giết luôn!
Trong Bản Cáo trạng của cụ Phan Thanh Nhãn, chúng ta đếm được tất cả 18 hầm chôn tập thể. Nhưng tổng số nạn nhân bị sát hại thì không thể nào kiểm chứng được!
Hầm chôn người tập thể ở Mỹ Tho năm 1945
Luật sư Hình Thái Thông, bạn học của Tạ Thu Thâu ở trường Bổn Quốc, sau có du học ở Pháp, cũng là nạn nhân Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ viết vài dòng ngắn ngủi (Trích quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tr. 90): “Thông làm trạng sư ở Sài Gòn sau về Mỹ Tho, rồi bị giết hại trong Phong trào Thanh niên Tiền phong, 1945, chôn tập thể một hầm gần 100 người tại Quởn Long (Chợ Gạo Mỹ Tho), năm sáu năm sau mới tìm thi hài ra được.”
Bà góa phụ Hình Thái Thông, sau là giáo sư dạy Pháp văn trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, các học sinh vào đầu thập niên 1950 đều có học Pháp văn với bà.
Đám Giỗ hội ở Gò Công
Xin nhắc lại một thiên tai xảy ra ở Gò Công vào năm Giáp Thìn cách đây hơn 100 năm, tức là khoảng tháng 3-1904. Đó là một cơn Sóng thần Tsunami ập vào miền duyên hải tỉnh Gò Công, vùng Vàm Láng và cửa Cần Giờ, gây thiệt mạng rất nhiều, gần như gia đình nào cũng có người bị chết. Vì cơn sóng thần đó, nên ở Nam Kỳ có câu vè truyền tụng “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc – Gió nào độc bằng gió Gò Công”. Từ đó về sau, vào ngày kỷ niệm Sóng thần, gia đình nào cũng làm đám giỗ. Đi khắp vùng, vì nhà nào cũng cúng giỗ, nên mới có tên là “Đám Giỗ hội”.
Vào Mùa thu “Kách mệnh” 1945, Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh cũng gây một “Đám Giỗ hội” tương tự như Tsunami 1904 ở Gò Công. Theo lời kể của một vị cao niên quê ở Gò Công là L.T.Q., thì nạn nhân là ông Đốc Phủ Hải và một số nhân viên làm việc ở Tòa Hành chánh khoảng trên 20 người đã bị Việt Minh Cộng sản tố cáo là “Việt gian”. Thế rồi họ bị tàn sát tập thể và chôn trong một hầm ở xã Bình Thành cách tỉnh lỵ 13 cây số. Theo lời kể của vị cao niên ấy, thì vào lúc đó ông Đốc Phủ Hải đã về hưu và là người rất nhân đức nên được người dân Gò Công thương yêu kính trọng!
Thêm vài vụ xử tử ở Gò Công
Ông Đốc Phủ Hải bị sát hại vì bị tố cáo là “Việt gian”, nhưng thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư dạy môn sử địa ở trường Trung học Trương Vĩnh Ký, thì bị giết vì thuộc thành phần “Trí thức”. Trong quyển Những ngày qua, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu nhắc đến Trần Thanh Mậu cùng là học sinh nội trú trường Petrus Ký với ông. Về những vụ xử tử nầy, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết như sau (trang 36 sđd):
“Trần Thanh Mậu là người có nhiệt tâm với đất nước, thường bàn với anh em nội trú về tương lai Việt Nam trong các giờ chiều sau buổi học. Khi Việt Minh cướp chánh quyền ở Miền Nam, anh thuộc những thanh niên đã tiên phong góp sức nhưng đã bị Cộng sản đem ra xử tử ở sân vận động Gò Công cùng hơn mười thanh niên trí thức và thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư sử địa trường Petrus Ký. Lý do thầm kín thật ra là vì các anh thuộc thành phần trí thức hăng hái nhưng hay chỉ trích các sai trái của Cộng sản địa phương. Đảng Tân Dân chủ lúc bấy giờ có phái Đặng Ngọc Tốt từ Sài Gòn đến can thiệp cho các anh nhưng không hiệu quả. Tốt chỉ có nước khóc và ôm anh em trước giờ hành quyết mà thôi!”
Xin thêm một biệt danh cho Hồ Chí Minh
Ngay từ “Mùa thu Kách mệnh” 1945, mà bản chất là Cơn bão thu tàn phá Đất nước, cách giết người tập thể và chôn chung trong một hầm là “Truyền thống Kách mệnh” của vị Chủ tịch họ Hồ vô cùng “khát máu và đói thây”. Trên con đường “Kách mệnh”, Hồ Chí Minh nổi tiếng là người dùng tên giả. Đến Mùa bịt miệng 2007, nếu ta thêm cho Hồ Chí Minh một tên giả là Hồ Khát Máu để vạch đúng chân tướng ác độc của ông thì cũng không ngoa. Xin phép Dân tộc cho người viết được gọi như vậy, bởi lẽ trong suốt 100 năm lịch sử Kháng chiến chống Pháp, tuyệt nhiên không có một vị anh hùng Dân tộc nào cần phải dùng đến Lễ Tế cờ như Hồ Chí Minh và cách sát hại đồng bào tập thể như vậy. Tuyệt nhiên không! Đến Tết Mậu Thân 1968, “Truyền thống Kách mệnh” giết người tập thể và chôn chung một hầm được Việt Cộng diễn ra tại Huế lên đến “đỉnh cao ác độc của loài người” để làm món quà dâng lên cho “Chủ tịch Hồ Khát Máu” một năm trước khi ông qua đời. Để tưởng niệm vong linh những nạn nhân ở Huế, nữ sĩ Nhã Ca đã viết Giải khăn sô cho Huế. Chung một nỗi niềm đau thương cùng cực của Dân tộc trong Thiên đường mù, xin nữ sĩ Nhã Ca cho Giải Khăn Sô đó choàng lên cả Đất nước khốn khổ để trở thành Giải khăn sô cho Việt Nam!
Những vụ sát nhân lẻ tẻ
Tỷ như một gian thương giành độc quyền bán món hàng “giết Việt gian” trên toàn thị trường Đất nước, Bác Hồ cho người đi rảo khắp nơi vừa bán sỉ vừa bán lẻ. Ở làng Long Hựu, quận Cần Đước, thuộc tỉnh Long An cũ, vào năm 1946, Việt Minh Cộng sản đã sát hại 2 vị cao niên đạo Cao Đài. Theo lời kể của anh Ng. Đ. L., một thuyền nhân tỵ nạn hiện ở Sydney: “Chú Ba Ân và chú Bảy Ri, lúc đó đã trên 60tuổi, thường cúng tứ thời mỗi ngày. Hôm đó, trong khi 2 người đang cúng kỳ 12g khuya ở bàn Thiên ngoài trời, thì bị chúng bắt dẫn đến bờ sông Cái và giết chết. Ba ngày sau, xác 2 người nổi lên, dân làng mới biết 2 người bị đập đầu chết và vạt áo dài họ mặc lúc làm lễ đã bị cột dính vào nhau.”
Người tín đồ Cao Đài thứ 3 là bác Ba Chà bị chúng cho đi mò tôm. Khi chân bác chạm đáy sông, bác đạp bung lên nên dây cột sút ra. Khi trồi lên, Bác còn bị đập đầu, nhưng không chết. Bác lặn xuống và lần theo đáy sông lặn đi thật xa. Đến khi hết hơi, bác trồi lên, tấp vào bờ bất tỉnh. May cho bác vì đến đó bọn sát nhân đã bỏ đi. Bác may mắn thoát chết, nhưng không dám ở Long Hựu nữa, bác đành bỏ cả nhà của ruộng vườn, di tản lên Thánh thất Tây Ninh lánh nạn.
Câu chuyện anh B. Đ. Ph., người tỉnh Trà Vinh hiện định cư ở Sydney, trốn chạy Cộng sản cũng giống như bác Ba Chà ở Long Hựu, tỉnh Long An. Gia đình anh tất cả đều theo đạo Cao Đài, nhà ở gần thánh thất nhỏ của tỉnh nhà. Cũng vào khoảng 1946, người chú ruột của anh bị Việt Cộng giết! Biết không thể sống ở Trà Vinh được nữa, cha anh mới âm thầm sắp xếp cuộc trốn chạy. Chờ đến nửa đêm, cả nhà lặng lẽ xuống ghe, bỏ lại tất cả tài sản nhà của ruộng vườn, theo đường sông, tìm cách về Tây Ninh để tỵ nạn Cộng sản. Vào lúc đó, anh B. Đ. Ph. còn quá nhỏ nên anh không nhớ phải mất mấy ngày chiếc ghe tỵ nạn của gia đình anh mới đến Tây Ninh và phải đi theo thủy lộ nào. Vào lúc đó, Thánh thất Tây Ninh là vùng an toàn cho tín đồ đạo Cao Đài, và gia đình anh B. Đ. Ph. là những thuyền nhân tỵ nạn Cộng sản đầu tiên, trước đồng bào di cư miền Bắc năm 1954 và những thuyền nhân sau ngày Quốc hận 30-4-1975.
Sau đây là câu chuyện của anh L. V. Ng., một thuyền nhân hiện định cư ở Sydney. Anh cũng là một tín đồ đạo Cao Đài quê ở ấp Trâm Vàng, làng Thạnh Phước, quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh. Một đêm trong năm 1947, Việt Cộng về ấp, đốt nhà và sát hại những tín đồ Cao Đài trong ấp của anh. Lúc đó anh 12 tuổi. Anh còn nhớ núp trong rừng chồi gần đó, anh nhìn thấy nhà của anh, của bác anh, và các nhà khác cháy rực cả góc trời. Bác của anh, một nông dân ròng rặc không biết một chữ Pháp cũng bị giết cùng với một số bạn đạo khác. Nhà ông Ba Mít bị cháy, lửa ăn qua chiếc xe bò là phương tiện làm ăn của ông. Ông bất kể mạng sống, liều chết chạy lại kê vai kéo chiếc xe ra khỏi đám lửa. Một tên Việt Cộng thấy vậy, cũng chạy lại đâm ông chết. Đến sáng, cha anh dẫn đàn con 5 đứa đi lánh nạn, mẹ anh bồng đứa con nhỏ nhất, anh cũng cõng một đứa em, đoàn người lết bết đi đến Châu Vi, một vuông đất trống gần bót Cao Đài. Trên đường đi, ngang qua nhà ông Thàng, họ nhìn thấy xác mẹ ông Thàng nằm chết cong queo trên đống than còn đang bốc khói. Theo lời anh L. V. Ng, tất cả những tín đồ Cao Đài đều bị giết trong đêm đó.
Mang súng vào lớp xử tử học sinh
Câu chuyện do một nhân chứng vốn là học sinh và sau nầy là đại tá Nguyễn Văn Ánh thuật lại và do giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm là cựu hiệu trưởng của trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ghi chép trong quyển Trường Trung học Petrus Ký và nền giáo dục phổ thông Việt Nam (trang 56):
“Một học sinh Petrus Ký bị xử tử ngay trong lớp học trước sự ghê sợ của giáo sư và học sinh của trường... Hồi năm 1950, một buổi chiều, khoảng 2 hay 3 giờ, trong giờ Pháp văn của giáo sư Nguyễn Văn Hai, có 6 người lạ mặt xông vào trường Petrus Ký. Hai người đi thẳng vào lớp Troisième Année B. Mấy người còn lại đứng canh chừng ở bên ngoài. Hai người vào lớp kêu tên hai học sinh của lớp nầy. Họ bắt một trong hai học sinh đó lên trên chỗ vách tường gần bàn giáo sư. Họ đọc to bản án tử hình cho mọi người nghe. Sau khi đọc xong bản án, một trong hai tên nầy dùng súng lục bắn chết anh học trò kia ngay trước sự chứng kiến của giáo sư Hai và tất cả học sinh của lớp Troisième Année B. Sau khi thi hành xong thủ đoạn, cả bọn cùng chạy ra đường Cộng hòa vừa hô to khẩu hiệu Việt Nam Độc lập muôn năm. Người bị xử tử tên là Minh, mà theo đại tá Ánh thì là một học sinh học hành rất chăm chỉ và là người có phẩm hạnh không có gì đáng chê trách... Bản án kết tội anh Minh là làm mật thám cho Pháp. Dù có hay không, việc xử tử công khai một học sinh ngay tại lớp học, ở trong một trường học lớn, trước sự chứng kiến của giáo sư và học sinh, vẫn là một hành động khát máu và hoàn toàn trái ngược với luân lý giáo dục.”
Thà giết lầm hơn tha lầm
Những trường hợp sát nhân trong Lễ Tế cờ vừa kể xảy ra trên cả 3 miền Bắc Trung Nam và bao gồm đủ các loại nạn nhân: từ những bậc chân tu, đến những người yêu nước khác chính kiến, cho đến học sinh tuổi vị thành niên, Hồ Chí Minh không bỏ sót ai cả, vì thà giết lầm còn hơn tha lầm. Xin dẫn chứng một thí dụ: khi Cộng sản chở 115 tín đồ PGHH trên chiếc ghe cà dom vào rạch Cá Gừa xã Mỹ Ngãi tỉnh Sa Đéc (cũ), trên đường đến chỗ hành quyết, chúng hô lớn lên rằng “Giết lầm hơn tha lầm” để khủng bố và đe dọa những người dân sống ở ven sông (theo lời kể cụ Phan Thanh Nhãn, trong bài viết của tác giả Nguyễn Huỳnh Mai tường thuật bên trên). Đến bây giờ, vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, sau hơn 50 năm, đọc lại Bản Tuyên ngôn Độc lập mà Hồ Chí Minh tuyên cáo cùng quốc dân ngày 2-9-1945 đồng thời phát động chiến dịch sát nhân hàng loạt như trong Lễ Tế cờ, chúng ta đã thấy Hồ Chí Minh nói một đàng mà làm một nẻo. Nào đâu quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, nào đâu mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng như trong bản Tuyên ngôn Độc lập đọc ở vườn hoa Ba Đình!?
Theo lời kể của cụ Nguyễn Trân, thì số nạn nhân bị sát hại trong đại họa Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là 8000 người trong vòng 40 ngày. Theo giáo sư Stephen Morris thuộc Viện Nghiên cứu Đông Á (Institute of Asean Studies), trường Đại học U. C. Berkeley, thì chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Cộng sản Việt Nam đã tàn sát đến 10 ngàn người của phía Quốc gia và phe Đệ IV Quốc tế. Chi tiết nầy được trích từ quyển Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc gia-Cộng sản của Nhóm Nghiên cứu Lịch sử ở Santa Clara, California (trang 281). Nhưng nếu chúng ta làm bản tổng kết của các tác giả vừa tường thuật trên đây, thì số nạn nhân trong Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh không thể dưới con số 20.000 người được.
Cuộc Cách mạng Mùa thu 1945 ở Việt Nam, thật ra là Cơn bão thu, là bản sao của Cuộc Cách mạng Tháng mười ở Nga năm 1917, chứng tỏ Hồ Chí Minh đúng là “bàn tay vươn dài” của Lênin và Stalin giết Dân tộc. Hồ Chí Minh đã học phương cách giết người để khủng bố và loại trừ đối lập từ bậc thầy Lênin của ông. Lễ Tế cờ của Lênin ở Nga, theo tác giả Minh Võ khi nghiên cứu Hắc thư về chủ nghĩa Cộng sản, đã viết như sau:
“Tác giả Nicolas Werth, thực hiện phần 1 (của Hắc thư), cho biết chỉ trong 2 tháng năm 1918, số nạn nhân bị giết của tân chế độ Lênin là từ 10,000 đến 15,000. Con số này lấy từ báo cáo của Mật vụ Chika, sau khi tác giả ghi lại các huấn thị của chính Lênin về việc phải trừng phạt những kẻ bất phục tùng được gọi là những tên Gulaks. Dù vậy, số người bị giết ở mức ước lượng tối thiểu trong chỉ 2 tháng dưới chế độ Lênin đã nhiều gấp hơn 10 lần so với số nạn nhân của chế độ Nga hoàng trọn năm 1906 là năm đàn áp dữ dội nhất. Theo tác giả, trong vòng gần một thế kỷ dưới chế độ Nga hoàng kể từ 1825 đến 1917, tổng số người bị giết chỉ có 6,321 nạn nhân.”
Bản tóm tắt số nạn nhân bị sát hại của 3 chế độ:
Chế độ Nga Hoàng từ 1825 đến 1917: 6.321 nạn nhân
Chế độ Lênin 2 tháng năm 1918: 10.000 đến 15.000 nạn nhân
Chế độ Hồ Chí Minh, Lễ Tế cờ: 20.000 nạn nhân
Tâm đạo sáng trong cơn khói lửa
Trong khi Hồ Chí Minh phát động Lễ Tế cờ biến Đất nước thành “Killing field” khổng lồ khiến cho thây trôi đầy sông, xác chôn ngập hầm, thì ngược lại, Đất nước cũng có những bậc Thiện giả ra tay tế độ theo Tự tình Dân tộc “Dù xây chín bậc phù đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Sinh linh khốn khổ, ai người cứu nguy. Đây, vị tâm đạo sáng của Dân tộc, người đã cứu mạng 200 người: Gs Hồ Sĩ Khuê.
Giáo sư Hồ Sĩ Khuê đã ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm và giúp củng cố Đệ nhất Cộng hòa trong thời kỳ đầu. Sau ông về giảng dạy môn Pháp văn ở Đại học Sư Phạm Sài Gòn. Ông là tác giả công trình nghiên cứu có tựa khá dài Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt trận Giải phóng. Ông di tản sang Pháp, để công 5 năm mới viết xong tác phẩm đó (1987-1992), và sách được nhà xb Văn Nghệ ấn hành ở Hoa Kỳ.
Nhắc lại thời điểm sau “Cách mạng Mùa thu 1945”, sinh viên luật khoa Hồ Sĩ Khuê của Đại học Hà Nội trở về ngôi làng của ông ở tỉnh Quảng Trị thì liền được dân làng bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Nhưng chỉ được 8 tuần lễ, thiện chí về dân chủ được mang vào trong mọi công tác của xã, ông đang say mê với nhiệm vụ thì được mời lên giữ chức Thẩm phán tỉnh Quảng Trị để xử lý (trang 139 sđd) “khoảng 200 người đang bị giam trong nhà lao của tỉnh. Họ là những quan chức cũ, Bảo hộ có, Nam triều có. Ai trước kia đã làm quan ở tỉnh Quảng Trị, ai ở đâu cũng bị tỉnh tróc nã về giam. Đã hai tháng rồi mà chưa biết xử lý thế nào”.
Chủ tịch tỉnh là “Bác Tú Hiếu”, bạn của thân phụ ông, là một nhà Nho theo Cộng sản vì yêu nước, chống Pháp mong giải phóng Đất nước. Ủy viên Tư pháp tỉnh là một cán bộ già, nhà Nho biết đọc quốc ngữ. Vị Chủ tịch và Ủy viên Tư pháp cùng đều là nhà Nho mang nặng trong lòng Đạo làm người phải cho có nghĩa có nhân. Cả hai không thông hiểu đường lối “Kách mệnh của Hồ Chí Minh”, không mảy may hận thù giai cấp, nên giao hết việc phán xử cho sinh viên luật khoa Hồ Sĩ Khuê. Ông Thẩm phán trẻ Hồ Sĩ Khuê, trong lòng dự định tha hết 200 người bị giam cầm đó, nhưng về hình thức cũng mất 2 tháng để lập hồ sơ, để cho thấy không có tội danh, rồi mới lần lượt trả tự do từng người cho đến hết. Tâm đạo sáng Hồ Sĩ Khuê được ông tự giải bày như sau (trang 141): “Bác Tú Hiếu không biết là tất cả đều có tội “giai cấp”, xử lý như tôi là phản cách mạng. Nhưng tôi thì tôi biết. Nên phải lánh đi. Ngày Tổng khởi nghĩa 19-12-1946, một buổi phát thanh tuyên truyền đã lên án xử tử phản động tên tôi”.
Việc ra tay cứu vớt 200 quan chức trí thức của tỉnh Quảng Trị gây ra hậu quả Hồ Sĩ Khuê bị kết án tử hình vì tội phản cách mạng. Ông đã biết trước như vậy, nhưng vẫn cứ cứu người, rồi sau đó ông bỏ ra Vinh, ra Đông Hà mở quán phở, rồi ra Hà Nội, và sau cùng về Huế mà không dám ghé thăm lại Đông Hà và làng quê của mình. Ngày 19-12-1946, khi nhóm Kháng chiến ở Huế “quy sơn” theo lịnh Tiêu thổ Kháng chiến của Hồ Chí Minh, Hồ Sĩ Khuê nằm trên gác trọ một ngôi nhà ở Huế, lòng mang cùng một tâm trạng bùi ngùi như người đảng viên Đại Việt Bùi Diễm. Họ là những người yêu nước nhưng không thể tham gia Kháng chiến được bởi lẽ Cách mạng sẽ không tha họ. Giả sử Hồ Sĩ Khuê bỏ Huế đi theo Kháng chiến vào lúc đó, thì hẳn nhiên sau này các sinh viên Đại học Sư Phạm Sài Gòn đâu còn có được vị thầy Hồ Sĩ Khuê giáo sư Pháp văn đức độ, đầy lòng nhân ái để kính trọng và noi gương.
Hồ Sĩ Khuê cũng cho biết ông là bạn học của Tố Hữu và hai người đã từng dạo chơi khắp chốn ở Đế đô. Nhân khi cứu xét hồ sơ 200 tù nhân đó, ông đã phát giác tên người tử tội đầu tiên ở tỉnh Quảng Trị. Thì ra đó là Nguyễn Hữu Chước, con vị thầy lớp dự bị của ông, và cũng là người bạn chung của hai người. Ngay ngày cướp chánh quyền tỉnh Quảng Trị, Tố Hữu đã ra lịnh xử tử người bạn chung Nguyễn Hữu Chước đó chỉ với mục đích: khủng bố để trấn áp.
Có một nhà viết sử đã nhận xét rằng Hồ Chí Minh không cứu ai cả. Thật đúng vậy, hai người đáng được cứu là cô Nông Thị Xuân và bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long. Cô Xuân là người thiếu nữ Hồ Chí Minh đã từng ân ái và đã sanh cho ông một đứa con. Bà Năm là ân nhân đã từng nuôi nấng trợ cấp cho rất nhiều đảng viên, đóng góp 100 lượng trong Tuần lễ vàng, có 2 người con tham gia kháng chiến, và được khen tặng là mẹ chiến sĩ. Ấy thế mà Hồ Chí Minh không cứu! Cô Xuân bị đập đầu chết và bị vất xác ra đường cho xe cán. Bà Năm là người đầu tiên bị đấu tố trong chiến dịch CCRĐ và bị xử bắn với tội danh là địa chủ ác bá. Đối nghịch với tâm địa hiếu sát kinh tởm của Hồ Chí Minh, độ lượng từ bi của Giáo sư Hồ Sĩ Khuê đã cứu 200 nhân mạng trong cơn khói lửa thật sáng ngời và đáng được Dân tộc ghi nhớ để ngưỡng mộ và noi gương.
Ở miền Nam, vào thời Nam Bộ Kháng chiến, cũng có một Tâm đạo sáng xứng đáng được ghi vào “Trang sử hiền” của Dân tộc: đó là Lê Văn Viễn, thường được gọi là Bảy Viễn, người thủ lãnh Bình Xuyên. Bảy Viễn ủng hộ Việt Minh, được Trần Văn Giàu cử làm Tư lệnh Mặt trận Sài Gòn, một chức vị không nhỏ trong những ngày đầu của cuộc Kháng chiến. Chuyện kể, do tác giả Ts Nguyễn Văn Trần ghi lại trong bài Bình Xuyên - Bảy Viễn (đăng trong Báo xuân Việt luận năm Bính Tý 1996, xuất bản tại Sydney, tr.181): “Trần Văn Giàu trao cho Bảy Viễn một danh sách hàng 200 người có bằng cấp Tây và bảo phải thủ tiêu”. Bảy Viễn đã xé bỏ danh sách đó và không thi hành. Tác giả Nguyễn Văn Trần ghi lại câu chuyện bằng lời phát biểu của Bảy Viễn theo cách ăn nói mộc mạc của người bình dân Nam Kỳ như sau: “Có bằng cấp, tội gì giết tụi nó. Chờ độc lập, bắt tụi nó ra làm việc chớ!”
Lời nói không văn hoa tý nào, nhưng ẩn tàng tấm lòng thiện lành mà người viết xin được gọi bằng “tâm đạo sáng trong cơn khói lửa”. Cùng diễn đạt những ý tương tự như vậy, nhưng Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng Bảo Đại thì văn hoa và đẹp vô cùng. Đây Điều 2 của Chiếu: “Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền Độc lập quốc gia, nhưng không đi sát phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào sự kiến thiết và tỏ rằng Chính phủ Dân chủ Cộng hòa nước ta đã xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân”.
Lời Chiếu Thoái vị văn hoa, hiền hòa, và xây dựng như vậy, nhưng không đủ sức chuyển hóa tâm cơ Hồ Chí Minh. Tuy Giáo sư Hồ Sĩ Khuê và Thủ lãnh Bảy Viễn từ chối không nhúng tay vào máu, tên đại mưu sĩ Hồ Chí Minh vẫn thành công rực rỡ trong Lễ Tế cờ, sát hại hàng chục ngàn người. Bởi lẽ khi nhân tâm ly tán “rời bỏ Tôn giáo vì bị kết tội là thuốc phiện ru ngủ con người” để chạy theo cuộc “Kách mệnh khát máu của Hồ Chí Minh”, thì xung quanh ông có cơ man kẻ ác sẵn sàng nhúng tay vào máu để cho bàn tay vị Chủ tịch của chúng luôn luôn được sạch!
Cũng trong bài Bình Xuyên - Bảy Viễn, tác giả Nguyễn Văn Trần thuật thêm chuyện Bảy Viễn cứu mạng một kỹ sư tốt nghiệp ở Pháp là Lê Văn Ngọ. Lúc đó kỹ sư Lê Văn Ngọ bị nhóm thủ hạ của Trần Văn Giàu bắt trói ở bờ sông và sắp sửa bị mổ bụng dồn trấu. Thời may Bảy Viễn chợt đi qua, thấy vậy mới hỏi lý do, thì được trả lời là “ông nầy có vợ đầm”. Cũng bằng lời nói mộc mạc, Bảy Viễn ra lịnh: “Nó có vợ đầm kệ nó chớ. Mở thả nó ra.”
Như thế, thủ lãnh Bình Xuyên Lê Văn Viễn đã cứu được kỹ sư Lê Văn Ngọ, một ngẫu nhiên đẹp vì cả hai người cùng họ Lê. Bảy Viễn đã cứu được một nhân mạng, sát nghiệp của Hồ Chí Minh cũng được giảm bớt một trong muôn vạn triệu phần! Đọc lại lịch sử để biết rằng vào hồi “Kách mệnh Mùa thu”, có vợ đầm tức là lập gia đình với phụ nữ Pháp, cũng là tội có thể bị tử hình như trường hợp kỹ sư Lê Văn Ngọ. Thế còn Hồ Chí Minh thì sao? Bác ta đã lấy đủ thứ vợ: vợ Pháp, vợ Nga, vợ Tàu, vợ Xiêm, và cũng đã giết vợ nầy và thủ tiêu vợ nọ nữa… Bác có bị kết tội như trường hợp kỹ sư Lê Văn Ngọ hay không? Bây giờ, ai là người trong Đảng Cộng sản có thể trả lời?
Đọc lại chuyện xưa: kế sát kê hách hầu
Trong mục Độc giả thắc mắc (Nguyệt san Làng Văn, số 153 tháng 5-1997), có câu hỏi “Giết gà dọa khỉ”, học giả Bút Chì giải đáp như sau. Đó là kế “sát kê hách hầu” của Khương Tử Nha đời nhà Chu bên Tàu xử dụng để thu phục nhân tài. Nguyên loài khỉ tinh khôn, nhanh nhẹn rất khó bắt nhưng cũng rất nhát, mỗi khi thấy máu thì nhũn ra, sợ hãi mà nghe lời. Muốn bắt khỉ, thợ săn mang một con gà ra cho nó trông thấy rồi vặn cổ quăng ra đất. Cảnh tượng con gà dãy chết đành đạch trên mặt đất khiến khỉ sợ cứng người không nhúc nhích được, mặc cho người tới bắt. Lúc dạy khỉ cũng vậy, bảo không nghe lời, người ta mang gà ra cắt tiết trước mặt nó. Khỉ sẽ khiếp sợ mà nghe lời ngay.
Học giả Bút Chì kể tiếp rằng ở đất Tề có một triết gia xuất chúng. Khương Tử Nha tìm tới mấy lần mời ra giúp nước, nhưng triết gia đóng cửa không tiếp. Khương Tử Nha lập kế giết đi để làm gương. Quả nhiên, sau khi triết gia kia bị giết, trong thiên hạ chẳng còn ai tự thị “thanh cao” nữa, tất cả đều ra hợp tác với triều đình. Chuyện đời nhà Chu bên Tàu, Khương Tử Nha chỉ giết một người cũng đủ làm thiên hạ khiếp sợ mà được việc mình. Còn Hoàng Sào cuối đời Đường, khi làm lễ tế cờ, không muốn giết ai, chỉ chém vào cây cổ thụ mà cũng giết lầm vị lão tăng ân nhân đã bảo bọc ông khiến cho ông phải thương khóc. Chuyện Cách mạng Mùa thu 1945 của Dân tộc Việt Nam, tại sao Hồ Chí Minh phải giết cả 20 ngàn người trong Lễ Tế cờ? Câu hỏi “Tại sao?” này rất cần được lịch sử trả lời.
Đọc lại lịch sử để biết vào ngày 22-12-1944, theo lịnh Hồ Chí Minh, đồng chí Dương Hoài Nam tức Võ Nguyên Giáp thành lập trung đội đầu tiên gồm 34 người, và cũng theo lịnh Hồ Chí Minh, trung đội được mang tên “Trung đội võ trang tuyên truyền”. Việc Dân tộc võ trang để đánh đuổi giặc ngoại xâm là việc hiển nhiên cần phải làm, những dẫn chứng như Cao Thắng mở xưởng đúc súng, như cụ Phan Bội Châu mua súng ở Nhật và tìm cách chở về Yên Thế cho nghĩa quân Đề Thám. Nhưng việc tuyên truyền chống ngoại xâm thì Dân tộc không cần phải làm. Ngọn Lửa thiêng chống giặc ngoại xâm của Việt Tộc được thắp sáng do những nữ anh thư Trưng Triệu, được hun đúc qua bao triều đại, càng ngày càng tỏ rạng sáng chói trong lòng mọi người. Xuyên suốt dòng lịch sử chống Pháp, khi có một anh hùng yêu nước đứng lên phất cao ngọn cờ kháng chiến, Dân tộc liền theo về hàng hàng lớp lớp phục vụ dưới bóng cờ. Một anh hùng ái quốc hô một tiếng, muôn triệu người hưởng ứng ngay, đâu có cần phải tốn công sức để vận động tuyên truyền!
Khí thế Dân tộc bừng bừng nổi lên chống Pháp vào Mùa thu Cách mạng dâng lên thật cao, tác giả Nguyễn Kiên Trung trong quyển Đem tâm tình viết lịch sử diễn tả như sau (trang 33): “Sự hoan nghênh Việt Minh, vì thế lan rộng rất nhanh. Nhanh đến nỗi, ở nhiều vùng, công tác tổ chức đảng viên không theo kịp lòng ngưỡng mộ của dân chúng. Người ta thao thức chờ đợi, lần mò tìm kiếm cho được “anh cán bộ” để xin đi theo, hoặc để giúp tiền bạc, khí giới”.
Thế nhưng Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp vẫn cứ thành lập Trung đội võ trang tuyên truyền để khởi nghiệp! Có bao giờ Dân tộc thắc mắc trung đội đó tuyên truyền điều gì không? Khổ nạn của Dân tộc và Đất nước bắt đầu từ hai chữ “tuyên truyền” của Hồ Chí Minh đó! Trong hậu trường chính trị, công tác tuyên truyền của Hồ Chí Minh cũng giống như chuyện thịt dê thịt chó sau đây, xin mời quý bạn đọc.
Trong văn chương Việt Nam, muốn diễn tả sự lường gạt của bọn con buôn đầu đường xó chợ, chúng ta có câu Treo đầu dê bán thịt chó. Nhưng bọn hàng thịt treo đầu dê bán thịt chó thì thật sự chỉ lường gạt được một số ít nạn nhân, mà người mua lầm thịt chó còn có quyền đem trả để đòi tiền lại hoặc đổi lấy đúng thịt dê mang về. Còn Hồ Chí Minh xưng tụng cách mạng trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam với Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, nhưng nhất nhất đều làm y theo chủ thuyết Mác-Lê-Stalin của Nga và tư tưởng Mao Trạch Đông của Tàu. Anh hàng thịt Hồ Chí Minh đã làm chuyện treo đầu dê bán thịt chó trong chính trị và đã lường gạt cả Dân tộc. Hồ Chí Minh đã rao món hàng Cách mạng theo Âu Mỹ mà lại bán cho Dân tộc món Xã hội chủ nghĩa với Cải cách Ruộng đất - Chủ thuyết Tam Vô - Đấu tranh Giai cấp đẫm máu của Nga Tàu. Anh hàng thịt Hồ Chí Minh đúng là Đại Việt gian gian xảo ác độc đã lường gạt và giết hại Dân tộc.
Kẻ mang nhiều nợ máu nhất với dân tộc!
Trong một xã hội lương thiện, không ai dung thứ những gian thương làm ăn theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó. Anh hàng thịt Hồ Chí Minh đã làm chính trị theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó, không những gian xảo để lường gạt Dân tộc, mà còn tàn nhẩn và khát máu giết hại biết bao nhiêu triệu người. Nhất thời thì Hồ Chí Minh đại thành công, nhưng về lâu về dài, Dân tộc đã phát giác những âm mưu đen tối của ông và do đó xác nhận ra đích danh kẻ gian xảo đê hèn độc ác đệ nhất hạng trong lịch sử Việt Nam đúng là Hồ Chính Mi. Dân tộc Việt quyết không chấp nhận xã hội chủ nghĩa Mác-Lê-Xít-Mao-Hồ. Dân tộc không nhận đúng món hàng mà Hồ Chí Minh rao bán, Dân tộc phải đứng lên giành lại Quyền Dân tộc Tự quyết, Dân tộc phải đứng lên làm cuộc Cách mạng Dân tộc chân chính với Độc lập Tự do Hạnh phúc chân thật.
Bằng những lập luận phân tách lịch sử như trên, ta mới rạch ròi tại sao Hồ Chí Minh xử dụng “võ khí tuyên truyền” với hậu thuẫn của súng đạn và cũng do đó, Hồ Chí Minh mới cần và dùng đến Lễ Tế cờ sắt máu sát hại hàng chục ngàn người. Hồ Chí Minh không phát động cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, mà ông ta chỉ là kẻ CƯỚP. Ngày 19-8-1945, Hồ Chí Minh CƯỚP chính quyền ở Hà Nội, và sau đó đọc bản Tuyên ngôn Độc lập dối trá, Hồ Chí Minh đã CƯỚP đi mạng sống của biết bao nhiêu nạn nhân trong Lễ Tế cờ. Giải phóng đâu không thấy, chỉ biết ông là kẻ CƯỚP TỰ DO - CƯỚP DÂN CHỦ - CƯỚP NHÂN QUYỀN CỦA DÂN TỘC. HCM chỉ là kẻ CƯỚP NƯỚC mà thôi.
Bạn đọc thân mến, quý bạn vừa đọc qua những vụ tàn sát cá nhân và tập thể mà người viết gọi chung là Lễ Tế cờ Của Hồ Chí Minh. Mãi về sau, trong diễn tiến cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh gây ra để đánh Dân tộc, các ký giả Tây phương mới chế tác hai từ “Killing field” và “Tắm máu” để chỉ những sự giết người hàng loạt. Thật không ai ngờ, không một ai có thể ngờ được, Đất nước thân yêu của chúng ta đã bị biến thành “Killing field” và Dân tộc bất hạnh của chúng ta đã bị “tắm máu” ngay khi Hồ Chí Minh vừa đặt chân về nước và đọc Tuyên ngôn Độc lập dối trá mỵ dân ở vườn hoa Ba Đình! Những văn nô của Hồ Chí Minh thường bêu riếu những người họ muốn phỉ báng là “kẻ có nợ máu với nhân dân”. Nhìn suốt dòng lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, thật không ai ngờ, không một ai có thể ngờ được, chỉ với số nạn nhân bị sát hại trong Lễ Tế cờ, chúng ta mới nhìn ra KẺ MANG NHIỀU NỢ MÁU NHẤT VỚI DÂN TỘC lại chính là HỒ CHÍ MINH, Bác Hồ thân yêu của chúng!
Viết tại Sydney, Úc Châu
Mùa Xuân 2008
Nhóm Tâm Việt Sydney
CHƯƠNG 3
HỒ CHÍ MINH, KẺ MANG TÊN GIẢ
Phép thất thập nhị huyền công
Trong kho tàng truyện Tàu, Tây Du ký là bộ truyện thật phổ thông, ở Việt Nam hầu như ai cũng có đọc. Truyện kể thầy Tam Tạng cùng ba người đồ đệ là Tôn Hành Giả, Trư Bát Giái, và Sa Tăng hành hương đến miền đất Phật gọi là Tây Trúc để thỉnh kinh Phật đem về Trung Quốc. Đường đi thiên ma bách chiết, lại thêm tiếng đồn thịt thầy Tam Tạng là một món thuốc trường sinh vô cùng quí giá, ai ăn được sẽ sống lâu ngàn tuổi, cho nên ma quỉ yêu tinh trên đường thầy đi thỉnh kinh đều muốn đón bắt để ăn thịt. Vì thế cho nên ba người đồ đệ vừa phải lo phụng dưỡng thầy lúc đi đường, vừa phải lo đánh đỡ chống trả với bọn yêu tinh để bảo vệ thầy mình.
Trong ba người đệ tử của thầy Tam Tạng có Tôn Hành Giả, pháp danh Ngộ Không, là tài ba hơn cả. Với phép biến hóa thất thập nhị huyền công, Tôn Hành Giả khi thì biến thành con ruồi xanh bay vào động yêu tinh để thám thính xem chúng bắt giam thầy mình ở đâu để giải cứu, khi thì biến thành chính thầy mình để dối gạt lũ yêu tinh, khi thì biến thành thức ăn như trái cây để yêu tinh ăn vào bụng, và khi đã vào trong bụng của yêu tinh thì lại biến thành Tôn Hành Giả tí hon cầm thiết bảng vung múa đánh đập vào tim gan tì phế thận của yêu tinh để bắt chúng thả thầy mình ra. Với nhiều phép mầu như vậy, cho nên Tôn Hành Giả cùng hai sư đệ Trư Bát Giái và Sa Tăng đã hoàn thành sứ mạng đưa sư phụ đến Tây Trúc và thỉnh được kinh Phật mang về nước an toàn.
Giải quán quân về tài dùng tên giả
Nếu trong truyện Tây Du nhân vật huyền thoại Tôn Hành Giả pháp danh là Ngộ Không có phép biến hóa mầu nhiệm như vậy để giúp Thầy mình đi thỉnh kinh hầu quảng bá và phát triển Phật pháp từ bi bác ái, thì trong lịch sử của nước Việt Nam bất hạnh có nhân vật Hồ Chí Minh với tài ba thiên phú tạo ra huyền thoại và cách dùng tên giả đã thành công mang chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông về để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam gian xảo, tham tàn, độc ác, và hèn hạ nhất trong lịch sử.
Trong lịch sử loài người, Hồ Chí Minh hẳn đoạt giải quán quân về tài dùng tên giả. Tác giả Douglas Pike trong quyển Khẩu sử về người Mỹ ở Việt Nam 1945-1975 (An Oral History Of Americans In Vietnam 1945-1975) đã viết (trang 95): “Hồ Chí Minh đi khắp nơi với ít nhất 40 tên giả”. Tác giả Phạm Quang Trình, đã đọc hết tám ngàn trang của bộ Hồ Chí Minh Toàn tập đồ sộ và cho biết Hồ Chí Minh đã dùng tới 30 bút hiệu khác nhau (quyển Chiến đấu, trang 272). Nhưng theo tác giả Minh Võ thì chính Hồ Chí Minh tự nhận rằng việc có hơn một trăm tên giả là điều bình thường vì trong mọi tổ chức gián điệp quốc tế, các tên giả là vỏ bọc, là biện pháp an toàn (Trích Hồ Chí Minh - Nhận định tổng hợp, tác giả Minh Võ, tr.184). Sau đây chúng ta hãy thử xem Hồ Chí Minh đã dùng những tên giả nào và dùng để làm gì?
Tên giả đầu tiên của Hồ Chí Minh là Nguyễn Văn Ba. Vào ngày 5-6-1911, sau khi nghỉ dạy ở trường Dục Thanh, ông vào Sài Gòn và tìm được một chân phụ bếp trên tàu SS Latouche Tréville của công ty Liên hiệp Hàng hải Pháp. Ông làm việc trên tàu với cái tên Ba mộc mạc ấy. Tại sao ông không dùng tên thật là Nguyễn Tất Thành để được mang một chút vẻ vang về sự đỗ đạt đại khoa của cha mình? Thuở ấy, dù sao ông cũng là một ấm sinh, cha là một vị Phó bảng đã từng giữ chức Tri huyện tuy đã bị sa thải. Phải chăng ông không muốn dùng tên thật vì cho rằng công việc lao động tay chân trên tàu không xứng với dòng dõi khoa bảng của gia đình?
Đơn xin nhập học sai lỗi chính tả
Khi vừa đến Pháp, ông liền viết đơn xin học Trường Thuộc địa ở Paris, nơi đào tạo quan chức phục vụ cho các thuộc địa của Pháp trong đó có Đông Dương. Đơn viết làm 2 bản đề ngày 15-9-1911 gởi cho Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trong đơn xin học nầy, ông đã viết tay một cách nắn nót và ký đề tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Đơn không được chấp thuận vì trường chỉ nhận tuyển sinh do sự đề cử của chính quyền các nước thuộc địa. Nhưng khi viết đơn, ông đã phạm một lỗi chính tả (faute d’orthographe) rất sơ đẳng, chứng tỏ trình độ Pháp văn của ông rất thấp kém. Trong đơn, đúng ra phải dùng chữ subsistance là kế sinh nhai, thì ông lại viết sai thành chữ substance có nghĩa là chất liệu. Với những vị cao niên từng thân thuộc với nền học vấn Pháp thời Pháp thuộc, thì cái lỗi chính tả Hồ Chí Minh phạm phải là một lỗi rất nặng, giống như khi làm toán mà sai con toán phải bán con trâu vậy. Về cái lỗi chính tả trong đơn xin nhập học nầy, xin có lời dẫn giải thêm sau đây.
Nguyên cha của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Huy có quen với cụ Bùi Thức là cha của Bùi Kỷ, trong dịp gặp nhau tại trường thi, lui tới với nhau khi chờ đợi kết quả. Khoa thi Hội 1898, cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, còn cụ Nguyễn Sinh Huy, đến năm 1901, mới đỗ Phó bảng. Thi đỗ xong, cụ Sinh Huy đưa con mình là Tất Thành ra Bắc thăm cụ Bùi Thức ở làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ rất giỏi, mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng, đã học trường Thông ngôn, và được học bổng sang Pháp học trường Thuộc địa từ tháng 2 năm 1911. Lúc Nguyễn Tất Thành mang tên Văn Ba đến Pháp, đi thăm cụ Phan Châu Trinh ở Paris, nhân đó đã gặp lại người quen cũ Bùi Kỷ. Có thể tại nhà cụ Phan, Bùi Kỷ đã gợi ý và thảo lá đơn xin nhập học cho Nguyễn Tất Thành chép lại. Và có lẽ vì trình độ Pháp văn còn thấp kém, trông gà hóa cuốc, bản thảo của Bùi Kỷ viết là subsistance mà Nguyễn Tất Thành chép lại sai thành substance chăng?!
Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành
Như một thám tử tài ba điều tra và tìm ra thủ phạm của một vụ án giết người mà từ lâu đã bị lấp khuất, kẻ sát nhân bị lôi ra trước công lý để đền tội, và người thám tử được vinh danh. Việc tìm ra lá đơn xin nhập học trường Thuộc địa sai lỗi chính tả của Hồ Chí Minh viết hồi năm 1911 cũng được ví von như vậy. Đó là do công khảo cứu của 2 nhà sử học Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu ngày 2-2-1983, và 2 người đã viết chung trong quyển Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành.
Trong thời gian thật dài là 72 năm (từ 1911 đến 1983), lá đơn sai lỗi chính tả ấy đã nằm yên trong Văn khố của Bộ Hải ngoại Pháp quốc mà không ai biết. Tưởng rằng không ai biết, nên Bác mới tha hồ khoác lác tự đề cao rằng mình “xuất dương để tìm đường cứu nước”. Đảng cũng không biết vị Chủ tịch Đảng của mình đã từng nạp đơn để xin học trường Thuộc địa, nên mới tha hồ chưởi bới bôi lọ rằng “trường chỉ là nơi đào tạo những tên Việt gian phản động, những tên chuyên làm tay sai cho Thực dân Pháp”. Thật đúng là Chủ tịch thì gian xảo, còn Đảng thì giỏi nghề chưởi bới. Chủ nào, Đảng nấy! Thật rất đúng!
Tên Paul Thành và Paul Tatthanh
Ông vẫn làm việc dưới tàu, rày đây mai đó, khi đi Anh lúc sang Mỹ. Sau đó không lâu, ông viết thư cho Khâm sứ ở Trung kỳ để xin ban cho cha ông một việc làm như thừa biện ở các bộ hay chức huấn đạo và một thư khác xin Khâm sứ chuyển mandat 15 đồng bạc Đông Dương cho cha mình vì cha ông không thể nhận mandat trực tiếp được. Những bức thơ nầy ông đề tên Paul Thành và Paul Tatthanh. Lần nầy, ông lại ghép thêm tên Paul vào tên khai sanh của mình cho có vẻ giống Pháp, vì đấy là mốt rất thời thượng vào thuở đó. Và ông lại viết 2 chữ Tất và Thành dính lại thành 1 chữ Tatthanh theo kiểu ngôn ngữ đa âm của tiếng Pháp.
Bút danh Nguyễn Ái Quốc của ai?
Về tên Nguyễn Ái Quốc thì có nhiều nghi vấn. Trong quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 của tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ (trang 87) thì tờ báo viết bằng chữ Pháp Le Paria có nghĩa là Người cùng đinh do đảng Cộng sản Pháp xuất vốn và do Nguyễn Thế Truyền hợp tác trông nom. Nguyễn Thế Truyền, người tỉnh Nam Định, có bằng kỹ sư hóa học, ở Pháp rất lâu, có vợ đầm, có hai cô con gái đặt tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị để kỷ niệm tên hai vị nữ anh hùng Việt Nam. Ông là một đảng viên kỳ cựu trong đảng Cộng sản Pháp (trang 89 sđd). Dù là kỹ sư hóa học, nhưng không dùng bằng cấp sống với nghề nầy, trái lại Truyền lại đi theo con đường chính trị, viết báo hô hào binh vực quyền lợi người dân Việt Nam bị Pháp áp chế. Theo bà Phương Lan Bùi Thế Mỹ (bà viết lại theo lời kể của Tạ Thu Thâu, vì bà cùng nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người đồng hương ở tỉnh Long Xuyên và giữa hai người có giao tình nghĩa huynh nghĩa muội rất đậm đà) thì ban biên tập tờ Le Paria như sau:
“Trong nhóm của Truyền, có nhiều cây viết mạnh như Truyền, đồng ký tên chung trong mục xã thuyết là Nguyen Le Patriote tức là Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho đó là của một mình Nguyễn Tất Thành, tức là Hồ Chí Minh sau nầy. Nhưng sự thật do nhiều người đảm nhận, thay nhau viết, như Hoàng Quang Giụ, một chiến sĩ làm phụ tá cho Truyền, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự v.v... Nhiều người viết cho một mục chung, chớ chẳng phải bút tự riêng cho một cá nhơn nào cả”.
Tác giả Phạm Quang Trình, trong quyển Chiến đấu (tr. 275), cũng đặt nghi vấn tương tự: “Có điều lạ là trong thời kỳ này, nhiều bút tích ký tên là Nguyễn Ái Quấc (lối nói của người miền Nam) chứ không phải là Quốc như lối nói của người miền Bắc và miền Trung (bản in ghi là Quốc khác với bút tích là Quấc), vậy phải chăng có hai hay một nhóm người dùng tên Nguyễn Ái Quốc mà sau này ông Hồ cố ý cầm nhầm chăng?”
Theo Phương Lan Bùi Thế Mỹ, thì quyển Kết án Thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) do Nguyễn Thế Truyền là tác giả bán rất chạy ở Việt Nam cũng như ở Pháp (trang 90 sđd). Phạm Quang Trình cũng đặt nghi vấn về tác giả của bản văn đó như sau: “Bản án Chế độ Thực dân Pháp là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của Thực dân Pháp đối với các Dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ An Nam. HCMTT/Tập 2 (tức là quyển Hồ Chí Minh Toàn tập) viết rằng Bản án Chế độ Thực dân Pháp được in lần đầu năm 1925 ở Paris bằng Pháp ngữ, do Nguyễn Thế Truyền đề tựa”. Tác giả Phạm Quang Trình cho rằng trong thời gian này ông Hồ đang hoạt động ở Nga, và từ lâu, nhiều nhân vật hoạt động cũng như dư luận đều cho rằng tài liệu này do một nhóm người hoạt động ở Pháp, chủ chốt là Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền cùng một số nhân vật khác ký tên chung là Nguyễn Ái Quấc hay Nguyễn Ái Quốc. Khi sang Nga làm việc cho ban Phương Đông, ông Hồ đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình và sau này cầm nhầm luôn tài liệu đó, tự cho mình là tác giả. Dư luận này đã được nhiều người chú ý và cho là khả tín.
Trong tác phẩm Chân tướng Hồ Chí Minh (trang 47), Giáo sư Cao Thế Dung cũng nhận xét về sự việc mạo nhận bút danh Nguyễn Ái Quốc như sau: “Nhóm Nguyễn Ái Quốc với cái tên chung xuất hiện trên một số báo như L’Humanité, Le Libertaire, La Vie Ouvrière cũng đều do Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền viết. Ông Hồ cũng nhìn nhận khả năng tiếng Pháp học trò của ông, nhưng Hồ đã lanh tay lấy tên Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đã nổi tiếng trên báo L‘Humanité của đảng Cộng sản Pháp và với tên này, Hồ đi vào cộng đồng Cộng sản và Thiên tả Pháp. Hồ được Nguyễn Thế Truyền giới thiệu với các đồng chí của ông trong đảng Xã hội và từ đảng Xã hội, Hồ qua đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện minh chính rất rõ rệt, không có Luật sư Phan Văn Trường và Kỹ sư Nguyễn Thế Truyền thì không có Nguyễn Ái Quốc. Cái danh Nguyễn Ái Quốc và Bản án Thực dân Pháp là sản phẩm của Phan và Nguyễn. Ông Hồ chỉ là một thứ chầu rìa văn chương”.
Vào thời gian đó, cũng có những bài mang bút danh Nguyễn Ố Pháp, nhưng tính quá khích nầy bị Jacques Doriot của đảng Cộng sản Pháp trách cứ.
Hồ Chí Minh mang giả danh Nguyễn Ái Quốc cũng giống y như trong thơ ngụ ngôn có chuyện cáo đội lốt hùm để vay mượn oai vệ của chúa tể sơn lâm. Cho đến ngày 19-8-1945, khi đảng Cộng sản cướp chính quyền ở Hà Nội, thì toàn quốc không ai biết nhân vật Hồ Chí Minh là ai! Chính Cựu hoàng Bảo Đại lúc đó ở Huế cũng không biết, ngài bèn hỏi Phạm Khắc Hoè. Hoè cũng không biết, bèn đi hỏi Tôn Quang Phiệt và Đào Duy Anh, thì cả 2 vị nầy cũng không biết. Vào lúc đó, Vũ Văn Hiền vừa mới từ Hà Nội về mới cho biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Khi Cựu hoàng biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì Cựu hoàng mới nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là Thánh Nguyễn Ái Quốc, thì trẫm sẵn sàng thoái vị ngay”. Đó là lời thuật của Phạm Khắc Hòe (Bài viết chung trong quyển Chín Chúa mười ba Vua, tác giả Tôn Thất Bình, trang 158).
Một nhân chứng ở Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng nhận xét về ý đồ dùng tên giả của Hồ Chí Minh như sau (Trích Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, tr. 327): “Tuy nhiên, xét kỹ thì một người đã mượn họ tên khác đặt vào mình trong một địa vị cao quý nhất của một nước, người ấy ắt có một tâm địa tráo trở. Vì lẽ gì đã phải giấu tên thực với quốc dân, với quốc tế? Những ngày đầu của chính quyền Việt Minh, trên mặt các báo có thấy nói đến tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng dụng ý là úp mở cho biết Hồ Chí Minh ngày nay tức là Nguyễn Ái Quốc trước”
Cụ Hồ Chí Minh thật là ai ?
Nhưng biệt danh Hồ Chí Minh lại cũng không phải là tên cúng cơm của Bác. Trong quyển Anh thư nước Việt từ lập quốc đến hiện đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (tr. 238 sđd): “Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà Tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Cụ qua Xiêm đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem sang Tàu cả hai”.
Trong cái chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi, vợ cụ Hồ Chí Minh thật và viết tiếp: “Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng VN, ở Tàu bao nhiêu năm thì bà Khôn Nghi cùng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng VN ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”
Cụ Hồ Chí Minh thật đó, tức là Hồ Học Lãm, là con của Án sát Hồ Bá Ôn, người đã hy sinh như một Liệt sĩ Dân tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa QDĐ, mang quân hàm trung tá, là thành viên sáng lập VNCMĐMH năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì nhân vật Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che giấu tông tích Cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu, và chiếm luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân quốc dưới quyền Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận Cộng sản).
Đến bây giờ, chúng ta đã biết Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, còn Hồ Chí Minh giả là con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi lại là Nguyễn Tất Thành. Biết là biết vậy thôi, nhưng giả đã biến thành thật quá lâu rồi, cho nên ta cứ đọc và hiểu rằng Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Tất Thành, là Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh, là là là... biết bao giả danh khác nữa! Nhưng biết là biết vậy thôi, cũng chưa đủ. Khi biết có hai Hồ Chí Minh, thì phải biết thêm một án mạng, nạn nhân là con gái Hồ Học Lãm, tức con của cụ Hồ Chí Minh thật. Chuyện do tác giả Nguyễn Thái Hoàng ghi chép trong bài Chân dung Hồ Chí Minh qua bài vè dân gian (Bài viết tại Hà Nội tháng 3-2006, Bán tuần báo Việt Luận đăng tải trong số 2052 ngày 17-3-2006), nguyên văn như sau: “Khi con gái ông Lãm phát hiện ra, làm ầm ĩ trước cửa Phủ Chủ tịch (Hà Nội) vào năm 1946, thì không biết Bác sai bảo ra sao mà trên đường bà này về thăm quê ở Thanh Hóa đã bị thủ tiêu bí mật”!
Bây giờ ta cứ xem những tên giả của Hồ Chí Minh như là những phép biến hóa thất thập nhị huyền công của Tôn Ngộ Không để tạo Hồ Chí Minh thành một con người muôn mặt, khi ẩn khi hiện, với hành tung kỳ bí như một nhân vật trong thần thoại. Vì thế cho nên, vào năm 1967 khi Oliver Todd, nhà văn và nhà báo Pháp, gặp Nguyễn Khắc Viện ở Hà Nội, thì Viện khoe với Oliver Todd rằng: “Bác Hồ của chúng tôi là huyền thoại sáng lập huyền thoại”. Khi nói như vậy, thì Viện chỉ làm bổn phận như một con vẹt lặp lại lời chủ, bởi vì trước đó 5 năm, vào tháng 7 năm 1962, trong cuộc phỏng vấn của Bernard Fall, chính Hồ Chí Minh đã thú nhận rằng mình là “một ông già thường thích thêu dệt một chút huyền thoại cho cuộc đời mình”.
Vào giữa năm 1923, với tư cách đảng viên đảng Cộng sản Pháp và mang tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ được đảng cử đi dự Đại hội V của Đệ tam Quốc tế (Komintern) và được cấp 1000 quan làm lộ phí (vào thời đó là một số tiền lớn, một sinh viên có thể sống trong 5 tháng). Sau một thời gian ngắn tạm trú ở Đức, Hồ Chí Minh được tổ chức làm cho một giấy thông hành để đi Mạc Tư Khoa với tên Chen Vang, trong giấy ghi ngày sinh là 15-2-1895.
Đến Mạc Tư Khoa, mang tên là Nguyễn Ái Quốc, ông có đọc một bài diễn văn tại đại hội của Komintern. Sau bài diễn văn, ông được ký giả phỏng vấn và bài phỏng vấn được đăng trên trang nhất của báo kèm với ảnh của ông. Bỗng chốc, ông nổi tiếng lừng lẫy và được bầu vào Chủ tịch đoàn của Đệ tam Quốc tế. Ông trở thành một Quốc tế ủy (Kominternchik). Ông đã chấm dứt giai đoạn đào tạo chiến sĩ Quốc tế Cộng sản của mình, và đạt được trình độ mà Đệ tam Quốc tế có thể phó thác cho ông những nhiệm vụ quan trọng.
Những tên giả ở Trung Quốc
Sau khi thành Quốc tế ủy Kominternchik, ông Hồ làm việc ở ban Phương Đông đến mùa thu 1924, rồi được gởi đến Trung Quốc. Đến Quảng Châu, ông không dùng tên Nguyễn Ái Quốc vì muốn che giấu tông tích Cộng sản của mình. Đối với Trung Quốc, ông xưng là Lý Thụy (Li Fui). Đối với người Việt, ông là Vương Sơn Nhi, hay Lão Vương (thật ra, chữ Thụy chiết tự ra thành ba chữ Vương, Sơn và Nhi). Khi viết cho tờ Quảng Châu báo, ông dùng bút danh Trương Nhược Trừng. Trong một báo cáo trước đại hội đại biểu toàn quốc kỳ 2 Trung Quốc Quốc dân đảng về vấn đề giáo dục, ông dùng tên giả là Vương Đạt Nhân. Lúc đó chức vụ công khai của ông là thông dịch viên của ông Michael Borodin, cố vấn Nga bên cạnh chính phủ Quốc dân đảng của bác sĩ Tôn Dật Tiên. Ngoài ra, ông phiên dịch và làm phóng viên cho hãng Rosta (tiền thân của Tass) lương 150 đôla một tháng, với tên Nga Nilốpxki (Nilovskii). Thực ra, đó chỉ là bình phong vì ông phải dùng chiêu bài chủ nghĩa Dân tộc để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản và thành lập các chi bộ Cộng sản tại Đông Nam Á.
Những tên giả ở Xiêm
Mùa thu năm 1928, với tên giả là Đào Cửu, ông xuất hiện lần đầu tiên tại vùng trung bộ nước Xiêm (bây giờ là Thái Lan). Vì chữ cửu là chín (số 9), cho nên có sách chép bí danh của ông lúc đó là Thầu Chín, có sách chép là Cha Chính, và công của ông đối với Đệ tam Quốc tế là thành lập đặng Chi bộ đảng Cộng sản Xiêm vào tháng 4 năm 1930 gồm đa số là người Việt và Hoa. Trên đất Xiêm, Hồ Chí Minh cũng dùng một tên giả khác là Mai Pín Thầu.
Hồ Chí Minh vói tay đến đất Mã
Cuối năm 1929, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đến Singapore công tác, và có lẽ trong thời gian nầy, ông móc nối được vài người Mã Lai nòng cốt cho Đảng Cộng sản Mã Lai sau nầy. Trong bài Mã Lai, bài học còn đó do Đ.Hòa lược dịch (Bán tuần báo Việt Luận đăng lại ngày 8-5-2007), chúng ta trích được đoạn văn như sau:
“Chủ thuyết Cộng sản được du nhập vào Mã Lai vào những năm đầu của thập niên 1920 khi một nhóm thuộc phần tử cực đoan Kuomingtang từ Trung Hoa di dân đến quốc gia nầy. Đến năm 1930, đảng Cộng sản Mã Lai (MCP) ra mắt tại Tân Gia Ba mà theo một cựu đảng viên Cộng sản Mã Lai tiết lộ vào ngày 8-6-2005 thì MCP do một người Việt Nam có tên là Yuen Ai Guo (Nguyễn Ái Quốc) và sau đó đổi thành Hu Chi Ming (Hồ Chí Minh) đứng ra thành lập. MCP sau đó được luật pháp Mã Lai thừa nhận, trở thành một chính đảng có sức mạnh đáng kể và được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới lao nông”.
“Khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam thì y ta để lại Mã Lai một phụ tá mà cho đến nay, các tài liệu chỉ nhắc đến qua cái tên Trung Hoa là Loi Tek hoặc Lasi Tek hoặc Loi Teek hoặc Lai Teek. Tên này giữ chức Tổng Bí Thư MCP”.
Tên Victor Nguyễn Ái Quốc
Tháng giêng 1930, ông về lại Hương Cảng. Với tên Victor Nguyễn Ái Quốc, ông nhận nhiệm vụ của cục Phương Đông thống nhất 3 đảng Cộng sản Đông Dương với những cương lĩnh mới, nhưng vẫn duy trì quyết nghị của Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội trong đại hội năm 1929 là dốc toàn lực chống lại Việt Nam Quốc dân Đảng bằng mọi cách. Cương lĩnh có ghi thêm nguyên văn như sau: “Đối với Quốc dân Đảng: thứ nhất, phải ra sức tranh thủ lực lượng của Quốc dân đảng, thứ hai, tổ chức đảng viên Quốc dân đảng vào Hội Phản đế” (Trích từ bài Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng năm 1930 của ký giả Hai Trang đăng ở Đặc san Việt Quốc, trang 37. Đặc san do Xứ bộ Úc Châu, Khu bộ Victoria phát hành).
Tên giả khi bị bắt
Từ 1930 đến đầu năm 1933, tại các vùng Thượng Hải, Hương Cảng, Cửu Long, Hạ Môn, ông vẫn dùng tên Lão Vương, nhưng khi bị bắt ở Thượng Hải thì ông khai là Tống Văn Sơ hay Đoàn Văn Sơ.
Tên Nga khi ở Mạc Tư Khoa
Khi được thả, ông về lại Mạc Tư Khoa. Ngày 16-9-1934, ông nhập học khóa tình báo ngắn hạng 6 tháng của KGB với tư cách là học viên nội trú của đại học Lênin, mang tên giả là Linov với bí số 375. Tại học viện Nghiên cứu các Vấn đề Thuộc địa, ông lãnh đạo tiểu tổ các học sinh Việt Nam và dùng tên giả là Lin.
Thêm vài tên giả ở Trung Quốc
Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa về lại Trung Quốc vào cuối năm 1938. Từ đó dến tháng 2-1941, ông hoạt động vùng Diên An, Hành Dương, Quế Lâm, Long Châu, Quí Dương, Trùng Khánh, Côn Minh, Tĩnh Tây và dùng các tên giả P.C. Lin, Hồ Quang (Hu Kwang), Lão Trần, Hoàng Quốc Tuấn. Ông lấy bút danh P.C. Lin để viết những bài gởi về Hà Nội đăng trong báo của Mặt trận Dân chủ do Võ Nguyên Giáp phụ trách. Tên giả Hồ Quang, với cấp bực thiếu tá, được dùng lúc ông công tác tại trạm liên lạc của Lộ quân 8 Trung Cộng ở Quí Dương (tỉnh lỵ của tỉnh Quí Châu). Với bí danh là ông Trần, Hồ Chí Minh đến Côn Minh do tổ chức liên lạc của Trung Cộng tại địa phương.
Hồ Chí Minh dùng tên giả Hoàng Quốc Tuấn để đảm trách chức chủ tịch Việt Nam Dân tộc Giải phóng Ủy viên hội tại Tĩnh Tây mà 2 cán bộ chính là Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) với chủ trương Thân Hoa Kháng Nhật. Vào lúc đó, Trương Bội Công nhận được chi viện của tướng Trương Phát Khuê (Tư lệnh Chiến khu 4 Trung Quốc), ông liền điều động Đội Công tác Biên khu Trung-Việt từ Liễu Châu về Tĩnh Tây, sát biên thùy Bắc Việt, để chiêu nạp thanh niên từ Việt Nam trốn sang. Các thanh niên sắc tộc từ Cao Bằng trốn sang đều đầu quân ở Đội Công tác Biên khu này. Biết được tình hình này, Hồ Chí Minh với giả danh Hoàng Quốc Tuấn chủ tịch VNDTGPUVH, đề nghị tái hợp tác với Trương Bội Công, và cho người len lỏi vào Đội Công tác Biên khu để đón người của Trương Bội Công đưa về huấn luyện theo chương trình riêng của mình. Đến tháng 2-1941, khi Hồ Chí Minh rời Tĩnh Tây về căn cứ Pác Bó ở Cao Bằng thì ông đã có một số cán bộ nhờ mưu lược lợi dụng tổ chức của Trương Bội Công.
Những tên giả ở hang Pắc Bó
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh hoạt động khắp vùng rừng núi Việt Bắc với các tên giả Già Thu, Sáu Sán, Ong Ké. Sau đó, Hồ Chí Minh lại sang Trung Quốc và bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp của Nhật. Lần nầy, ông được Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần bảo lảnh nên tướng Trương Phát Khuê mới trả tự do cho ông. Nhờ khả năng tình báo do KGB đào luyện, ông được tướng Trương Phát Khuê tin dùng và cho phục vụ trong tình báo Trung Hoa qua Bộ Tư lệnh Đệ tứ Chiến Khu ở Hoa Nam. Rồi từ tình báo của Trung Hoa, ông bắt liên lạc với tình báo Huê Kỳ do Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti, đặc vụ phụ trách chiến trường Đông Dương của OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA, cơ quan Trung ương Tình báo Hoa Kỳ. Ông trở thành một trong 25 điệp viên của Charles Fenn với bí danh Lucius bí số 19. Ông được Charles Fenn cung cấp cho 6 khẩu súng lục 38 cùng với 120 băng đạn.
Hồ Chí Minh dùng tên giả và bí danh rất nhiều, nhưng cũng có lúc ông viết bài mà không đề tên, cũng không đề là vô danh, chỉ để trống mà thôi. Đó là lúc thời cơ chưa thuận lợi, cho nên toàn bộ những bài viết của ông đăng trên 30 số báo Việt Nam Độc lập từ tháng 8-1941 đến tháng 8-1942 đều không thấy ký tên.
Chúng ta đã lược qua những tên giả và bí danh Hồ Chí Minh đã dùng trong quãng thời gian rất dài từ lúc ông là anh Ba làm phụ bếp dưới tàu để đi Pháp năm 1911 đến lúc ông là Hồ Chí Minh tuyên đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 ở Hà Nội. Chỉ có một người tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Tất Thành, nhưng Hồ Chí Minh đã dùng những tên giả để đóng đủ các vai: đảng viên đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế ủy (cán bộ nòng cốt) của Đệ tam Quốc tế, tình báo viên KGB, đảng viên Trung Cộng cấp bậc Thiếu tá, sĩ quan phục vụ Trung Hoa Dân quốc, điệp viên OSS của Huê Kỳ, và sau cùng là Bác Hồ Cha già Dân tộc. Dùng tên giả để che giấu tông tích của mình chưa đủ, Hồ Chí Minh còn dùng tên giả để viết sách tự đề cao mình. Đó là quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên, và với bút danh T.Lan ông viết quyển Vừa đi đường vừa kể chuyện. Lại còn một tên giả khác là Lê Nhân, ông dùng để viết bài giải thích thêm cho thật rõ những lời dạy dỗ của Hồ Chủ tịch mà chính “Bác” đã viết trước đó.
Chuyện hai cha con Nguyễn Tất Thành và Ng. Tất Trung!
Dùng tên giả mãi, rồi sau cùng Hồ Chí Minh cũng có lần dùng lại tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Lúc đó là đầu năm 1955, Hồ Chí Minh về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève. Tổng cục Hậu cần tìm được một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng ở Cao Bằng tên Nông Thị Xuân (sau đổi thành họ Nguyễn) và đón cô về “phục vụ” cho ông. Đến cuối năm 1956, cô Xuân sinh được một đứa con trai và ông đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Qua cách đặt tên con như vậy, hiển nhiên ông nhìn nhận liên hệ phụ tử. Này nhé: cha là Nguyễn Tất Thành thì con là Nguyễn Tất Trung. Trong Tình tự Dân tộc, tên hai cha con hợp lại là Trung Thành, thật là có ý nghĩa, thật đẹp vô cùng!
Nhưng sự thực thật phũ phàng, không trung, không thành, không thủy chung gì cả! Sau khi sinh con, cô Xuân ngỏ ý với Bác muốn được ra chính thức. Cô ước muốn được làm mẹ và làm vợ trong một gia đình ấm cúng, với một người chồng yêu thương và bảo bọc mình. Lòng mong ước theo bản tánh thiên nhiên mà bất cứ người phụ nữ nào trong bất cứ xã hội nào cũng mong ước, nhưng niềm mong ước chính đáng đó lại là bản án tử hình của cô. Cô bị lên án tử hình mà cô không biết! Cô phải bị thủ tiêu để Bác được tiếng là Cha già Dân tộc suốt đời không lập gia đình để hy sinh trọn vẹn cho đất nước! Tên Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn của Bác nhận lịnh thi hành bản án, thấy cô Xuân quá đẹp nên hắn hiếp dâm cô nhiều lần, rồi đập đầu cô chết và quăng xác ra đường để ngụy tạo thành tai nạn giao thông. Đứa con Nguyễn Tất Trung của Bác vừa được vài tháng tuổi, chưa thôi nôi, chưa biết bò, thì đã mồ côi mẹ! Trong một chế độ thối tha ghê tởm như vậy mà có một nhạc sĩ văn nô sáng tác bài ca Ai yêu Bác Hồ hơn chúng em nhi đồng? để đầu độc lòng ngây thơ trong trắng của cả thế hệ thiếu nhi!
Về sự việc giết cô Nông Thị Xuân, nếu Hồ Chí Minh im lặng không nói tiếng nào thì thôi! Nhưng khi cô Xuân ngỏ ý muốn được Bác nhìn nhận là vợ chính thức, thì Bác ta lại lếu láo trả lời: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được, nên phải chờ một thời gian nữa”.
Lời phát biểu của Hồ Chí Minh như vậy, khi ông nại tên những nhân vật trong Bộ Chính trị để nói với cô Xuân, hiển nhiên là lời nói dối chính trị. Hồ Chí Minh đã dối trá với Dân tộc bằng bản Tuyên ngôn Độc lập bịp bợm! Ông đã dối trá với cả thế giới bằng các quyển sách ông viết với giả danh Trần Dân Tiên và T. Lan! Còn đây là trường hợp ông dối trá với một thiếu nữ ngây thơ hết lòng trọn dạ trao thân gởi phận cho ông, sanh cho ông một đứa con, mà lại bị ông kết án tử hình! Khi cô Xuân ưng chịu “trao thân gởi phận” cho “Bác - Cha già Dân tộc”, “trao thân” cho Bác thì Bác lấy, nhưng Bác không chịu để cho cô Xuân “gởi phận” cho mình! Bác vô trách nhiệm như vậy mà cô Xuân không biết nên vẫn tin lời Bác, cô chờ cho đến khi bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm và bị đập đầu chết! Cô thật là “bạc phận” trao duyên lầm “Tướng cướp”! Đến bây giờ, xin cầu nguyện với Hồn thiêng Sông Núi đừng để cho Huyền thoại Hồ Chí Minh dối gạt thêm ai nữa trong những thế hệ tương lai của Dân tộc!
Chuyện hai thầy trò Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn
Cái chết bi thảm của cô Xuân là bằng chứng hùng hồn tố cáo Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vô cùng gian xảo, khát máu và đầy tham vọng. Thầy nào trò nấy: tên bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn của Hồ Chí Minh cũng tàn bạo, đê hèn, ghê tởm không bút mực nào tả xiết. Đồng thời, nó cũng tố cáo chế độ ông lập ra là một chế độ cực kỳ phi nhân và bạo ngược. Khi bị hiếp dâm, cô Xuân chống cự, xô Trần Quốc Hoàn ra và nói: “Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”. Trần Quốc Hoàn cười một cách nhạo báng: “Tôi biết bà to lắm, nhưng bà phải biết sinh mạng bà nằm trong tay tôi”. Rồi hắn nói tiếp: “Sinh mệnh tất cả Dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào, tùy ý. Và tôi nói cho bà biết : ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi”.
Tên bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn thỏa mãn thú tánh của mình trước rồi sau mới nghiêm chỉnh thi hành lịnh của Bác. Hắn tiếp tục giữ chức bộ trưởng công an và phục vụ đắc lực chế độ thêm 23 năm cho đến năm 1980, rồi an nhàn về phục viên, đến 1986 mới mãn phần. Tên Bộ trưởng công an đầu tiên của chế độ HCM, Trần Quốc Hoàn, đã phát biểu: “Sinh mệnh tất cả dân tộc VN nằm trong tay tôi”.
Thế mà hắn đã giữ chức vụ Bộ trưởng Công an từ 1953 đến 1980, tất cả là 27 năm! Xuất thân là đầu trộm đuôi cướp, bị bắt giam về tội trộm cắp, và bị giam chung với đảng viên Cộng sản. Trong tù, Hoàn được móc nối và gia nhập đảng. Thật sự Trần Quốc Hoàn là thành phần bất hảo và vô học. Nhưng ai phong cho hắn làm Bộ trưởng Công an? Thì chính Hồ Chí Minh chứ ai! Nghĩ cho cùng, nếu có người nói “Sinh mệnh tất cả Dân tộc VN nằm trong tay Hồ Chí Minh. Ông ta muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào, tùy ý” thì người ấy cũng không nói sai sự thực! Hồ Chí Minh đã dày xéo Dân tộc bằng bàn tay của Trần Quốc Hoàn! Thật khổ cho người dân cứ tưởng “Bác” là Cha già Dân tộc!
Bác dối trá với sinh viên
Giết cô Xuân vào đầu năm 1957, thì chỉ mấy tháng sau, khoảng cuối năm 1957, Hồ Chí Minh vào thăm trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Trong buổi nói chuyện thân mật với sinh viên, Bác ra cái điều thành khẩn: “Bác có hai tật xấu, các cháu không nên bắt chước. Một là hút thuốc, hai là không lấy vợ”. Câu chuyện Bác Hồ vào thăm sinh viên và khai rằng mình không lấy vợ là do Hoàng Quốc Kỳ thuật lại trong quyển Ma đầu Hồ Chí Minh (trang 17). Cũng như trong cuộc phỏng vấn của tác giả Bernard Falls vào năm 1967 về câu hỏi “vợ con”, Bác đã trả lời rằng tất cả chỉ là tin đồn sai sự thực.
Bác còn tệ hơn đạo quân xâm lược Nhật Bản
Chuyện thực giả quá rõ ràng, nhưng những sự việc sau đây là do tưởng tượng của người viết, cũng xin mời quý bạn đọc chơi cho biết. Thời gian thấm thoát thoi đưa, các cháu của Bác Hồ tham dự buổi nói chuyện hôm ấy vào cuối năm 1957, đến bây giờ là đầu thiên niên kỷ thứ ba, 50 năm đã trôi qua, chúng đã thành những bậc lão niên thất thập cổ lai hi rồi. Hẳn là có một số cháu đã sinh Bắc tử Nam hoặc chết rục trong ngục tù Cộng sản vì liên can tới vụ Nhân văn Giai phẩm. Hẳn là có một số cháu ngoan vẫn giữ vững niềm tin Bác Hồ của mình là Cha già Dân tộc suốt đời không lấy vợ. Chắc chắn cũng có một số cháu không tin như vậy và lý luận rằng Bác không lấy vợ làm sao Bác có con, vậy chớ Nguyễn Tất Trung là con của ai, nếu cô Xuân không phải là vợ của Bác thì là gì, chẳng lẽ Bác xem cô Xuân là an ủi phụ như đạo quân xâm lược Nhật Bản trong thời Đệ nhị Thế chiến xử dụng phụ nữ các nước bị chiếm đóng làm comfort women để giải quyết sinh lý cho binh sĩ lúc xa nhà. Tại sao Bác lại xử tử cô Xuân, so sánh với đạo quân xâm lược Nhật Bản, Bác còn tệ hơn họ vì họ không tàn sát những comfort women của họ!
Chuyện Hồ Chí Minh và William J. Duiker
Quý độc giả thân mến, quý bạn vừa đọc “Chuyện hai cha con Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Trung”, tiếp theo là “Chuyện hai thầy trò Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn”, tại sao bây giờ lại có “Chuyện Hồ Chí Minh và William J. Duiker”, người viết xin trả lời ngay. Chẳng qua là vì tác giả Duiker đã viết về Hồ Chí Minh, và đã xem Hồ Chí Minh như một thân nhân trong gia đình của mình! Quyển sách Duiker viết là quyển Ho Chi Minh, a life. Quyển sách thật đồ sộ, dài 700 trang, mất 20 năm mới được viết xong. Tác giả Duiker hưởng được phương tiện dồi dào để đi khắp nơi trên thế giới thu thập tài liệu, thảo luận với những tác giả trước đó đã viết về Hồ Chí Minh, và phỏng vấn rất nhiền nhân vật quan trọng trong chính phủ. Kết quả là quyển Ho Chi Minh, a life được đánh giá là quyển sách đầy đủ nhất và có uy tín nhất từ trước đến nay trong loại thư mục về Hồ Chí Minh.
Hoàn thành xong đại tác phẩm đó, trong Lời phi lộ tác giả Duiker cảm ơn hai người con gái của ông, Laura và Claire, đã chịu đựng hàng giờ (và hàng năm) để nghe ông nói như giảng kinh về chuyện Việt Nam. Tác giả Duiker cũng mãi mãi thiết tha tri ân vợ là Yvonne vì nàng đã đọc bản thảo và đã tỏ ra kiên nhẫn chịu đựng Hồ Chí Minh trong nhiều dịp như là một thân nhân trong gia đình. Thật đẹp vô cùng, tình cảm tác giả Duiker dành cho vợ con ông và nhân vật Hồ Chí Minh qua Lời phi lộ đó! Một cách tế nhị, Duiker chứng tỏ ông là người chồng thương vợ và người cha thương con.
Nhưng thật hoàn toàn trái ngược với tác giả Duiker, Hồ Chí Minh lại là người chồng bất nghĩa đã giết vợ! Tuy Hồ Chí Minh không hề xem cô Xuân là vợ, nhưng theo Tình tự Dân tộc thì “Một ngày cũng nghĩa vợ chồng”, ông bà ta đã theo nếp sống đẹp như vậy! Ông cũng là người cha bất nhân đã hại con mình phải mồ côi mẹ khi đứa bé còn chưa biết bò! Hồ Chí Minh bất nhân bất nghĩa như vậy thì làm sao xứng đáng là người thân của gia đình Duiker! Nếu áp dụng đúng luật pháp của Hoa Kỳ, thì Hồ Chí Minh phải bị truất phế khỏi chức vị lãnh tụ mà còn phải ngồi tù đền tội sát nhân, tác giả Duiker lấy đâu ra đề tài để viết. Người viết không hề muốn làm phiền lòng vợ con tác giả Duiker nhưng vì quyển sách Ho Chi Minh, a life đã gây thiệt hại cho Dân tộc Việt Nam quá nhiều!
Tác giả đã đứng về phe phái Hồ Chí Minh trách cứ tổng thống Truman đã không chịu cứu xét lá thư của Hồ Chí Minh xin ủng hộ, vì thế cho nên chiến tranh mới xảy ra thảm khốc. Vì tác giả Duiker đã viết cả 10 quyển sách về Việt Nam, ông không phải là một sử gia bậc thường, cho nên Dân tộc Việt Nam chúng ta có quyền trách cứ ông: Sử gia Duiker, tại sao ông lại bỏ qua không có một lời nào nói đến Thông điệp của Vua Bảo Đại ngày 20-8-1945 gởi đến Tổng thống Truman, Quốc vương Anh George Đệ lục, Thống chế Tưởng Giới Thạch, và cả Tướng Charles de Gaulle để xin công nhận nước Việt Nam độc lập ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh? Thông điệp của vì vua đã hy sinh ngai vàng của mình cho Nền Dân chủ của Đất nước không đáng quý trọng hay sao?
Chuyện Duiker và Trần Khải Thanh Thủy
Chương viết về Hồ Chí Minh, Kẻ mang tên giả nầy sẽ không trọn vẹn nếu không đối chiếu tác giả Duiker với một nhà văn nữ ở Hà Nội. Đó là Trần Khải Thanh Thủy, người từng được giải thưởng quốc tế Hellman-Hammett nhờ viết bài binh vực và đòi nhân quyền cho dân oan, nhưng lại bị Đảng khai trừ khỏi Hội Nhà văn và bị trù dập thậm tệ. Duiker viết quyển Ho Chi Minh, a life với phương tiện của một đại gia triệu phú. Chỉ một việc ông đã bay đi khắp nơi trên thế giới, kể cả qua Liên Xô, để thu thập tài liệu cũng đủ làm bàng hoàng các cây viết sử ở những nước nghèo. Nhà khảo cứu Minh Võ, trong quyển Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp đã viết như sau (trang 53):
“Để hoàn thành tác phẩm, Duiker đã dành 20 năm cho việc đọc và gặp gỡ các tác giả đi trước, những người cầm bút ở Mỹ, Úc, Âu Châu, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản… Ông nêu hàng loạt tên tuổi, trong đó phần lớn là viên chức các cơ quan tại Hà Nội như Viện Mác Lênin, Viện Sử học, Đại học Hà Nội và những nhân vật Cộng sản Việt Nam mà ông gọi là các học giả và nhà nghiên cứu thường quan tâm đến Hồ Chí Minh hay tới cuộc cách mạng Việt Nam. Một số người còn được ông nêu đích danh như Nguyễn Huy Hoàn ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trần Thanh, bốn nhà sử học Phùng Hữu Thu, Lê Mậu Hân, Phạm Xanh, Phạm Công Tùng cùng các nhân vật Hà Huy Giáp, Đặng Xuân Kỳ, Đỗ Quang Hưng, Ngô Phương Ba, Văn Tạo, Trần Hữu Đính, kể cả Lưu Doãn Quỳnh thuộc Viện Liên lạc Quốc tế của Cộng sản Việt Nam…”
Với phương tiện dồi dào như thế đó, Duiker lại chọn được đề tài ăn khách là viết về Hồ Chí Minh, cho nên quyển Ho Chi Minh, a life hẳn là quyển sách ăn khách nhất (best seller) trong mục loại đó. Trong nền kinh tế thị trường ở Hoa Kỳ là nước giàu nhất thế giới, quyển Ho Chi Minh, a life hẳn đã gặt hái thành công rực rỡ. Những hàng chữ cuối cùng của quyển sách thành công rực rỡ đó, tác giả Duiker dành để viết những lời trang trọng cho Hồ Chí Minh như sau (Quyển Ho Chi Minh, a life, ấn bản Úc Châu, trang 577): “Di sản của Hồ Chí Minh để lại cho Dân tộc dù được người đời phán xét bằng bất cứ lời lẽ nào, ông cũng đã đoạt được ngôi vị trong đền thờ anh hùng cách mạng có quá trình tranh đấu để cho những người cùng khổ khắp nơi trên thế giới được cất lên tiếng nói của mình.”
Quyển Ho Chi Minh, a life được ấn hành ở Hoa Kỳ và Úc Châu năm 2000, thì 25 năm trước đó, vào ngày 2-9-1975, đảng Cộng sản Việt Nam đã khánh thành lăng của chủ tịch họ Hồ ở công trường Ba Đình, Hà Nội. Xác ướp Hồ Chí Minh được đặt trong quan tài bằng thủy tinh trong suốt, trong phòng điều hòa không khí quanh năm để cho du khách khắp nơi đến chiêm ngưỡng. Rồi từ đó về sau, mỗi năm lăng Hồ Chí Minh gây tốn hao cho công quỹ không biết bao nhiêu triệu đô la (100 tỷ đồng Việt Nam theo kỹ sư PN Đỗ Nam Hải trong tác phẩm Hãy trưng cầu dân ý, trang 190), trong lúc vô số hộ gia đình cần giúp đỡ để xóa đói giảm nghèo.
Trong một nước nghèo khổ cùng cực như Việt Nam hiện nay, chi tiêu một ngân khoản khổng lồ để điều hành và bảo trì xác ướp Hồ Chí Minh là một nghịch cảnh đau lòng. Xác ướp Hồ Chí Minh lại được trang điểm bằng chiếc quần kaki có một miếng vá, chứng tích vô cùng thô bỉ của đạo đức giả, chứng tích nói lên tính gian xảo lừa bịp của Hồ Chí Minh suốt cả cuộc đời và của cả cái đảng do ông thành lập! Tới đây, người viết xin mượn nguyên văn lời đối đáp của Trần Văn Thủy với Nguyễn Thị Hoàng Bắc trong quyển Nếu đi hết biển (trang 87). Khi Hoàng Bắc nói đến số tiền người Việt ở nước ngoài gởi về hàng tỷ Mỹ kim thì cán bộ Trần Văn Thủy gạt ngang và nói: “Tôi nghĩ chúng ta không nên xen chuyện tiền bạc, trần tục vào câu chuyện nghiêm chỉnh như thế này.” Chúng ta rất đồng ý với Trần Văn Thủy không nên xen vấn đề tiền bạc trần tục vào việc nghiêm chỉnh như việc thờ kính các bậc anh hùng Dân tộc. Điều nghiêm chỉnh là chúng ta hãy xem lại lời xưng tụng của tác giả Duiker “quá trình tranh đấu của Hồ Chí Minh là để cho những người cùng khổ khắp nơi trên thế giới được cất lên tiếng nói của mình” có nghiệm đúng hay không?
Không đúng! Hoàn toàn sai! Lời xưng tụng của Duiker hoàn toàn sai! Phải bỏ ngay vào sọt rác lịch sử! Hồ Chí Minh không hề tranh đấu cho Dân chủ và Nhân quyền! Hồ Chí Minh đã đi theo Stalin, tức là đã đi theo “Cuộc Cách mạng đã bị phản bội”! Hồ Chí Minh chỉ tranh đấu để mang lá cờ đỏ của Lênin đi khắp nơi và để xây dựng đảng Cộng sản Việt Nam tàn bạo, độc tài, tham lam, và bần tiện nhất trong lịch sử loài người!
Ngày 27-10-2006, ngay trong thành phố Hà Nội, trái tim của nền Văn hóa Việt tộc, thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam, không xa lăng Bác Hồ, căn hộ nghèo của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy ở phường Đống Đa đã bị Chủ tịch phường, Bí thư đảng ủy, cùng Tổ trưởng dân phố huy động một đám đông 100 người đến đập phá nhà cửa tan hoang một cách dã man rừng rú và còn hành hung đánh đập hai vợ chồng. Kính cửa sổ bị đập bể nát trong lúc mùa đông đang đến. Giường ngủ của họ bị 10 người mang cả giày leo lên dậm sập. Hai cô con gái tuổi học trò của họ ngơ ngác hoảng loạn!
Điều nghiêm chỉnh ở đây là chính nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy cũng là người thấp cổ bé miệng trước quyền thế cực kỳ hung bạo của Đảng. Nhưng bà lại can đảm đứng lên, cất cao tiếng nói của mình để giúp những người dân oan khiếu kiện đòi lại tài sản, đất đai đã bị những “đảng ủy Kách mệnh” của Hồ Chí Minh cướp giựt. Những bài phóng sự của bà đã xuất hiện thường xuyên trên những trang báo và diễn đàn điện tử ở hải ngoại để tạo thêm sự hỗ trợ cho những người dân thấp cổ bé miệng hơn bà. Chính vì thế mà bà bị “Kách mệnh” trừng phạt! Đảng cho “côn đồ Kách mệnh” đến đánh đập vợ chồng bà chưa đủ, đập phá tan hoang căn hộ nghèo của bà chưa đủ, nên sau đó Đảng còn bắt bà vào tù theo Luật Rừng của Đảng!
Lời tác giả Duiker tôn vinh Hồ Chí Minh thật không nghiêm chỉnh tý nào! Ví như một vở hài kịch thô bỉ hạ cấp được diễn trong một nhà hát rộng lớn nguy nga mà không có khán giả, hàng ghế đầu chỉ loe ngoe vài quan chức đỏ có giấy mời nên vỗ tay khen rối rít. Người viết chân thành không muốn máng từ “văn nô” vào văn nghiệp của tác giả Duiker, nhưng ông thật không thận trọng khi xử dụng những văn liệu từ các cây viết của Bắc Bộ phủ. Tác giả Duiker có thấy Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng ngay giữa toà án hay không? Lời Duiker tôn vinh Hồ Chí Minh đó phải vất ngay vào sọt rác lịch sử thôi! Đảng lại còn muốn chuyển ngữ cả quyển “Ho Chi Minh, a life” ra tiếng Việt để vất luôn vào sọt rác lịch sử hay sao!?
Đi tìm Út Huệ thứ hai cho “Bác”
Trở lại chuyện cô Xuân, có câu hỏi tại sao Bác lại ra lịnh thủ tiêu cô Xuân dễ dàng như vậy? Tại sao Bác không có lòng thương hoa tiếc nguyệt như lối diễn tả của các bậc thi bá thi hào thuở xưa? Có phải vì Bác đã có sẵn những cô Hạ, cô Thu, cô Đông, cô Thanh Minh, cô Đoan Ngọ hay chăng? (xin mượn chút văn phong của nữ sĩ Dương Thu Hương). Câu hỏi đặt chơi cho vui vậy thôi, không ngờ lại đúng! Trong cung đình hang Pắc Bó của Bác, có biết bao nhiêu chuyện bí mật còn chờ bật mí. Xin mời quý bạn theo dõi câu chuyện do Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tâm tình với Hoàng Dũng, người phụ tá một thời của ông mà ông rất tin cẩn. Buổi tâm tình đó liên quan đến rất nhiều chuyện bí mật và Hoàng Dũng viết lại thành bài Những bí ẩn về tân Thủ tướng Việt Nam (Báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 31-10-2006). Người viết chỉ xin trích những phần liên quan đến Hồ Chí Minh. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, người Hưng Yên miền Bắc, vào Sài Gòn hoạt động năm 1939 và đã ở miền Nam suốt 50 năm sau đó. Lúc ông giữ chức Bí thư Trung ương cục Miền Nam, ông nhận lịnh của Bộ Chính trị (lúc đó do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lãnh đạo) phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ Chính trị. Tại sao phải tìm con gái miền Nam để phục vụ Bác? Do công sưu tầm của nhà văn Sơn Tùng thì từ thuở còn thanh niên, Bác đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam. Sơn Tùng công bố trong bài viết Đi tìm Út Huệ. Do vậy Bác có ấn tượng và thiện cảm với những người phụ nữ Nam bộ. Vào lúc đó thì Võ Văn Kiệt là Ủy viên Trung ương cục được Nguyễn Văn Linh tin dùng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ tìm cho Bác một Út Huệ thứ hai. Theo lời Hoàng Dũng thì vào lúc ông Nguyễn Văn Linh thố lộ những chuyện thâm cung bí sử trong Trung ương đảng Cộng sản thì ông đã về nghỉ, ông trở nên trầm tư và đôi khi sự thất vọng và u uẩn hiện rõ trên nét mặt và trong thái độ của ông. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa cổ lai hy, như vậy không thể cho ông nói thiếu chính xác được và cũng không thể nói ông dèm pha bêu xấu Đảng được.
Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của ai?
Tác giả Nguyễn Thuyên trong quyển Bộ mặt thật của Hồ Chí Minh (trang 127) đã liệt kê một danh sách dài những người tình hoặc vợ hờ của Bác như sau: “Vợ Tàu, vợ Pháp, vợ Nga, ở đâu Hồ Chí Minh có mặt là có nhân tình ở đó. Ngày mới đặt chân đến Pháp đã viết thơ tình cho cô Bourdon - bị cô này từ chối, rồi cặp bồ với Brière. Qua Nga dan díu với cô Véra Vasiliera, khi qua Tàu thì yêu cô Tuyết Cần, cô Tăng Tuyết Minh. Lúc ở Hong Kong thì sống chung với cô Lý Sâm. Trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam ai cũng tưởng Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức là Lê Huy Doãn). Nhưng khi Cộng sản Liên Xô sụp đổ, nhà báo Sophia Quinn Judge đã tìm thấy trong hồ sơ Quốc tế Cộng sản ở Mạc Tư Khoa rằng trước đó Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Hồ Chí Minh, sau mới lấy Lê Hồng Phong. Về hang Pắc Bó, Hồ Chí Minh lấy một thôn nữ hầu cận “Bác” tên Phá Thị Nùng, sinh được một con trai. Sau đó Phá Thị Nùng bỗng nhiên biến mất không trở lại thôn bản Cao Bắc Lạng nữa.”
“Năm 1942, nhiều người Việt tham gia hoạt động chống Pháp tại Liễu Châu, trong số đó có Đỗ Thị Lạc (chị Thuần) theo học lớp truyền tin, rồi trở về VN hoạt động. Hồ Chí Minh cũng dan díu với chị Thuần có một con. Sau đó chị Thuần cũng không còn thấy xuất hiện.”
Chuyện vợ con của Bác Hồ, viết bao nhiêu cũng không hết được, nếu không thêm vào một chuyện: người ta đồn rằng nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Thập là “Bác gái”. Theo tác giả Lê Minh Khôi, trong Hồ Chí Minh chính truyện (trang 165), thì Nguyễn Thị Thập nguyên là nữ giao liên trên tuyến đường Vũ Nhai - Bắc Sơn, sau được Hồ Chí Minh phong chức Chủ tịch Hội Phụ nữ.
Trở lại chuyện các cháu của bác Hồ, trong số các cháu ấy, phân loại ra thì có cháu ngoan và cũng có cháu không ngoan. Chỉ riêng về việc Bác Hồ của chúng có vợ hay không, chúng đã chia làm hai nhóm và luôn luôn bất hòa, tranh luận không ngớt, nhóm nào cũng giữ vững lập trường của nhóm mình. Xin các chính trị gia, tư tưởng gia, những nhà giáo dục, những bậc ưu thời mẫn thế hãy tìm dùm một phương cách cho hai nhóm cháu này được nhất trí và đừng tranh luận nữa. Hãy khoan bàn chuyện Hòa hợp Hòa giải Dân tộc. Có những việc nhỏ nhoi về Hồ Chí Minh cần phải bàn và giải quyết trước cái đã!
Năm sinh nào là “thứ thiệt” của Bác
Tác giả Bùi Tín đã viết: “Không ai biết năm sinh “thứ thiệt” của ông Hồ là năm nào!” Hồ Chí Minh khai đủ các năm, tùy nơi, tùy lúc. Trong sách Trần Dân Tiên, ông khai 1890. Khi là Yên Sơn, một bí danh khác của ông, ông khai 1891. Trong đơn xin nhập học trường Thuộc địa của Pháp, ông khai 1892. Với Sở cảnh sát Pháp ở Paris, ông khai 1894. Với sứ quán Nga ở Bá Linh để xin qua Nga học, ông khai 1895. Chị Ba Sophia của Bùi Tín nghiên cứu tài liệu trong kho lưu trữ của Liên Xô cũng cho biết: “Tài liệu năm 1934 ông khai 1894, và tài liệu năm 1938 ông ghi là sinh năm 1893!”
Trong bài viết Đừng hiểu sai, viết lầm về Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Tường Bá có lời khuyên phải rất thận trọng về “Bác Hồ” và viết: “Tìm hiểu năm nào đúng là việc làm vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận khi cần trẻ để du học thì Bác khai trẻ hơn, và khi về nước Bác lại khai già hơn, tất cả là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ”.
Thật đúng vậy, nhất cử nhất động của Hồ Chí Minh đều nằm trong “sự tính toán sách lược” (chữ của Lữ Phương). Vì khi về nước để làm Cha già Dân tộc, thì Bác phải điều động cho Trần Dân Tiên khai năm sinh là 1890 để cho Bác được 55 tuổi! Hồ Chí Minh đúng là biểu tượng của GIAN XẢO CÓ TÍNH TOÁN THEO SÁCH LƯỢC! Bây giờ, có cháu nào còn tin được “Bác Hồ”!
Di chúc nào là “thứ thiệt” của Bác
Về năm sinh của “Bác” thì có năm ba năm khác nhau. Về tên giả của “Bác” thì không biết cơ man nào mà kể. Cho đến Di chúc của “Bác” cũng nằm trong hào quang tuyên truyền của Đảng. Có Di chúc 1, mà lại có Di chúc 2. Thế nên thực hư, chân giả, thiện ác nhòa nhập thành một khối hỗn loạn khôn phân! Dân tộc không biết tin cái nào? Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969 và được phát tang ngày 3-9-1969, ông để lại Di chúc rằng sẽ đi gặp các ông tổ Cộng sản Mác, Lê, v.v… Mãi đến cuối thập niên 80, người ta thấy xuất hiện ở Pháp một Di chúc khác đề ngày 14-8-1969, nói là do Hồ Chí Minh viết để lại cho đứa con gái lai tại Pháp. Bản chụp Di chúc 2 này do một người Pháp ở Paris gởi cho Luật sư Nguyễn Văn Chức ở Hoa Kỳ, kèm theo bản chụp bút tự của Hồ Chí Minh để chứng tỏ Di chúc là do chính tay Bác viết. Sau đó Luật sư Chức đưa câu chuyện về Di chúc 2 lên internet của Thư viện Toàn cầu ngày 10-5-2007.
Trong Di chúc 2 này, Hồ Chí Minh kể lể: “Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, buộc tôi phải viết bản Di chúc theo ý họ. Tôi đã viết, mà trong bụng thì tấm tức vô cùng.”
Ông lại có lời hối hận rằng: “Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo Cộng sản Mác-xít mà không biết là chủ nghĩa này dần dần trở thành lạc hậu và phản động, những người đi theo Mác-xít chỉ là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp lấy chánh quyền cho nước Nga.”
Hồ Chí Minh cũng nói về việc tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm 2 cành đào vào đầu năm 1963 với bức thư đề nghị cụ Ngô cùng ông “thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân 2 miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người”. Ông viết tiếp rằng chuyện vỡ lở ra, cho nên cụ Ngô bị giết ở trong Nam, còn ở ngoài Bắc ông bị kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định gì nữa cả. Sau vụ đó ông than rằng: “Đáng lẽ ra thì tôi bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tôi còn bị thế giới biết đến, nên họ còn phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm. Tôi đã già, râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh ngục tù, cứ nghĩ đến điều này là tôi ứa nước mắt”.
Ở phần cuối Di chúc, ông không nhắc nhở gì tới đứa con Việt Nguyễn Tất Trung mà chỉ nói: “Tôi không có vợ, nhưng cũng có được một đứa con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi khi đọc được tờ Di chúc này sẽ tha thứ cho tôi không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm”.
Người viết xin miễn bàn về Di chúc 2 này. Bây giờ thì thực giả khôn phân vì Đất nước đã có quá nhiều giả dối!
Đất nước quá nhiều giả dối!
Câu chuyện tràng giang đại hải về tên tuổi của Bác, nói tới đâu cũng không đủ. Còn có 4 tên là Nghe Lỏm, CB (của Bác), Trần Lực, Yên Sơn, người viết chưa tìm ra bản văn mà Bác đã ký đề bằng các tên ấy. Nhưng thôi, ngần ấy giả dối gian xảo của Bác cũng tạm đủ để Dân tộc biết Bác là thủ phạm đã lường gạt Dân tộc bằng cách xây dựng Thiên đàng Xã hội chủ nghĩa bánh vẽ, bằng Bản Tuyên ngôn Độc lập giả dối, bằng cuộc Cách mạng Dân tộc mị dân, xây dựng một xã hội đầy dối trá gian xảo, mồ liệt sĩ giả, nhà tình thương giả, tiền polymer giả, anh hùng tí hon Lê Văn Tám giả (tự đốt mình chạy vào kho đạn của Pháp để kho đạn phát nổ), chiến sĩ Nguyễn Văn Cừ giả (lấy thân mình lấp ổ châu mai), chiến sĩ Phan Đình Giót giả (đã bị thương nhưng vẫn lấy vai mình cho đồng đội tựa trung liên mà bắn máy bay địch), chiến sĩ Bế Văn Đàn giả (lấy thân mình chặn bánh xe đại pháo cho khỏi tuột dốc), bằng cấp giả, thí sinh vào phòng thi công khai dùng phao, các sư cha quốc doanh tu hành giả dối, chiếm đoạt chùa chiền để làm kinh tài cho Đảng, tham gia chính trị thì được phong chức dân biểu Quốc hội còn các nhà sư đạo hạnh và các vị linh mục chân chính thì bị tố cáo là lo làm chánh trị, bầu cử thì theo kiểu Đảng cử Dân bầu, Quốc hội dân biểu giả không lo việc dân vì dân biểu biến thành Đảng biểu và Quốc hội biến thành Đảng hội, cán bộ có quyền có chức thì lo tư túi, nhận công trình xây cất thì lo rút ruột, cán bộ tham nhũng bị bắt thì lo chạy án, cán bộ cai quản lâm trường bảo vệ môi sinh thì biến thành lâm tặc, cán bộ muốn làm ăn trái pháp luật thì phải tìm ô dù, ăn cắp công quỹ thì phải dọn dẹp sạch sẽ để hạ cánh an toàn, người dân đến cửa công để xin giấy tờ thì phải biết vấn đề “đầu tiên”...
Người cha bất nhân, người chồng bất nghĩa
Trong truyền thống Dân tộc với Luân thường đạo lý và Lễ nghĩa liêm sỉ, chúng ta ngậm ngùi thương tiếc những ngày xa xưa khi chúng ta thấm nhuần nếp đạo Tu tề trị bình và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc. Đạo làm người, tức là nhân đạo, không phải chỉ là giáo lý riêng của Khổng giáo mà chính là căn bản đạo đức chung của nhân loại. Ngày hôm nay, trong những quốc gia dân chủ được tự do bầu cử, những chính trị gia khi ra ứng cử, thường trình cho cử tri đoàn biết hình ảnh gia đình êm ấm với cảnh vợ con đề huề hiếu thuận, vì đấy là một lợi điểm dễ chiếm cảm tình của cử tri, vì hình ảnh gia đình êm ấm thuận hòa là hướng tiến hóa của nhân loại, là giấc mơ thơ mộng ngàn đời của loài người.
Trở lại chuyện Hồ Chí Minh với việc giết cô Xuân, cướp đoạt quyền sống và quyền làm mẹ của cô cùng với quyền được hưởng tình mẫu tử thiêng liêng của con ông, chỉ vì chút hư danh làm Cha già Dân tộc, ông đã nhúng tay vào máu và phạm vào tội ác vô cùng kinh tởm để trở thành người cha bất nhân người chồng bất nghĩa trong lịch sử Việt Nam. Nhân đây xin nhắc lại lời của đức Mạnh Tử: “Nếu phải giết một người vô tội để lấy hết thiên hạ thì đó cũng là chuyện không nên làm”.
Nhưng trong con người duy vật vô thần của Hồ Chí Minh chỉ có toàn Mác, Lênin, Stalin và Mao, chứ nào đâu có Khổng Mạnh cùng Đức Phật và Đức Chúa, cho nên ông đã đạp đổ Tu tề còn phép Trị bình của ông thì không phải do Đạo nghĩa Pháp trị mà chỉ áp đặt bằng gươm đao súng đạn sát hại hàng triệu nhân mạng. Bộ máy nghiền của Đảng phát động bởi vô số công an do Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn đào luyện đã nghiến nát hết tự do, dân chủ, hạnh phúc và cả sanh mạng của người dân. Dân tộc bị dìm sâu xuống cùng cực trong nô lệ. Đất nước thành nhà tù khổng lồ cho đến nỗi nếu cột đèn biết đi thì chúng cũng vượt biên. Con đường Bác đi, tức con đường Kách mệnh chất đầy xương máu của Dân tộc mà Nguyễn Tất Thành đã dẫm đạp lên để đi để trở thành Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, thì thật quá bi đát cho Dân tộc Việt Nam!
Xây dựng lại đất nước để đón mùa xuân Thăng Long bất diệt
Nhưng cùng tắc biến, biến tắc thông, Trời đất xoay vần, hết cơn bỉ cực rồi sẽ đến hồi thái lai. Những cánh quạ đen rồi sẽ bay đi. Bầy én xuân sẽ rủ nhau về. Dân tộc sẽ bừng lên làm lại Cuộc Cách mạng Đạo nghĩa pháp trị. Truyền thuyết Một mẹ trăm con, tinh hoa của Dân tộc, sẽ như cơn mưa thương yêu thuần hòa thấm nhuần Đất Tổ. Như câu sấm ký đã truyền tụng Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về, Nguyễn Tất Thành ra đi khỏi nước với tên Ba, rồi trở thành Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Trần Dân Tiên, vân vân... rồi thành HCM, sau cùng trở lại thành Nguyễn Tất Thành cha đẻ của Nguyễn Tất Trung. Phần sau của câu sấm ký Giặc đến Bồ Đề thì giặc sẽ tan rồi sẽ ứng nghiệm. Khi giặc tan rồi, Dân tộc sẽ dời lăng Bác về hang Pắc Bó, nơi có đồi Mác và suối Lênin, chỗ ngụ của Bác ngày xưa, để cho vườn hoa Ba Đình được thắm tươi và thanh khiết. Hướng về mảnh đất thiêng Nghìn năm văn vật, cái nôi của nền Văn hóa Việt tộc, toàn dân sẽ bừng lên nỗi vui mừng đón mùa xuân Thăng Long huy hoàng rực rỡ.
Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Quốc hận 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney
CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH
Trong Cuộc chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đánh Dân tộc, cuộc chiến thường được gọi là cuộc tranh chấp Quốc Cộng, thì phe Quốc gia Dân tộc chịu thiệt thòi vô cùng phải ở thế hạ phong dẫn đến thất bại ngày 30-4-1975. Một trong những nguyên nhân là vì trong hàng ngũ Quốc gia Dân tộc có quá nhiều kẻ ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, những kẻ nằm vùng theo những sách lược địch vận của Cộng sản như: trí vận, tôn giáo vận, văn hóa vận, sinh viên vận, học sinh vận, phụ nữ vận, binh vận… nhiều vô số không thể nào kể hết, và sau ngày 30-4-1975 lại có thêm kiều vận nữa. Nào là bà Ngô Bá Thành hợp cùng ni sư Huỳnh Liên với Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống xuống đường gây rối, nào là Phong trào Phản chiến với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cứ chĩa mũi dùi về phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong khi Bộ đội Cộng sản hung hăng đòi tiêu diệt hết các nước tư bản chủ nghĩa để tiến tới Thế giới Đại đồng thì lại được nhạc sĩ binh vực! Lại còn thêm những trí thức ưu tú của miền Nam, tự nhận là Thành phần Thứ ba đứng trung lập, nhưng lại do Cộng sản giật dây điều khiển.
Chuyện Giáo sư Châu Tâm Luân
Có một trường hợp bây giờ thuật lại nghe giống như chuyện tiếu lâm. Đó là chuyện giáo sư Tiến sĩ Châu Tâm Luân. Ông được học bổng đi Mỹ học và đậu bằng Tiến sĩ kinh tế nông nghiệp. Khi về nước, ông dạy ở các trường Nông Lâm Súc. Trên bục giảng Đại học trước các sinh viên, ông thường phê bình: “Chế độ Sài Gòn như một cái áo rách nát đến nỗi không còn có thể vá, cách duy nhất là xé bỏ và may một chiếc áo mới”.
Rồi lời ước muốn của ông hóa thành sự thật. Ngày 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, Việt Cộng chiến thắng, giáo sư Luân được sống với Việt Cộng, nhưng ông lại không muốn cái áo mới màu đỏ của Việt Cộng nên bỏ trốn đi vượt biên! Có người hỏi tại sao ông không ở lại phục vụ mà lại vượt biên thì ông đáp: “Họ tàn ác lắm! Hở ra một chút là họ giết liền!” Ở miền Nam trước kia, có không biết bao nhiêu người như giáo sư Châu Tâm Luân, nhiều không thế nào kể xiết! Sau đây, xin mời bạn đọc chuyện văn sĩ nằm vùng Vũ Hạnh, một chuyện điển hình với đầy đủ chi tiết hơn.
Chuyện ông Khai Trí và nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh là một cán bộ văn hóa vận của Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn thật lâu. Ông là một văn sĩ có tài. Tác phẩm Người Việt cao quý của ông xuất bản ở Sài Gòn và được tái bản 3 lần sau đó. Có một giai thoại thật đẹp giữa văn sĩ Vũ Hạnh và nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương, chủ nhân của nhà sách Khai Trí. Câu chuyện xảy ra vào khoảng cuối thập niên 60. Chuyện kể khi văn sĩ Vũ Hạnh mang bản thảo của mình đến thương lượng với nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương thì hai bên ưng thuận với giá 100 ngàn đồng (theo thời giá, số tiền ấy có thể mua được 5 hoặc 6 cây vàng). Nhưng đến ngày thanh toán tiền bản quyền, nhà văn nhận bao thơ, mở ra đếm thì thấy đến 120 ngàn. Nhà văn ngạc nhiên, bèn hỏi nhà xuất bản có nhầm lẫn không. Ông Nguyễn Hùng Trương, mà ai cũng gọi là ông Khai Trí, điềm nhiên trả lời: “Không, tôi không trả lộn đâu. Trước kia, chúng ta ưng với giá 100 ngàn vì tôi chưa đọc bản thảo. Nhưng sau khi đọc xong, tôi thấy giá trị của nó đến 120 ngàn, cho nên tôi phải trả đúng theo giá trị của nó”.
Thưa quý độc giả, lúc đó chúng ta đang ở vào một thời điểm của Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khoảng cuối thập niên 1960. Ông Nguyễn Hùng Trương, tức là ông Khai Trí, vui lòng và tự ý trả thêm cho văn sĩ Vũ Hạnh 20 ngàn đồng cho xứng đáng với giá trị của tác phẩm, điều quá bất ngờ cho tác giả Vũ Hạnh. Hai mươi ngàn đồng từ trên trời rơi xuống?! Không phải! Từ trái tim và khối óc của một nhà xuất bản thành công, trong một nền kinh tế thị trường thành công, và trong một chế độ dân chủ khá ổn định! Mối giao hảo giữa nhà văn và nhà xuất bản mà đẹp đến thế thì ít có nơi nào trên thế giới sánh bằng! Chúng ta đã có một nền kinh tế thị trường khá hoàn hảo và nhất là chúng ta đã có một nhà xuất bản tuyệt vời biết quý trọng các nhà văn và nền Văn học Nghệ thuật. Với nền kinh tế thị trường về sách báo đẹp như vậy, tuy chế độ dân chủ của Việt Nam Cộng hòa ở phương Nam còn non trẻ, nhưng chế độ đã cung cấp cho văn nghệ sĩ khá đầy đủ tự do và phương tiện để họ xứng đáng là Văn nghệ sĩ chân chính phục vụ Nghệ thuật chứ không phải là Văn nô bồi bút nịnh bợ Đảng để ăn lương như xã hội miền Bắc của Hồ Chí Minh.
Nhạc sĩ Xuân Tiên đem yêu thương về cho phương Bắc
Vào thời gian đó, sau hơn 10 năm định cư ở miền Nam, một triệu đồng bào miền Bắc di cư đã ổn định cuộc sống và vững vàng với sự nghiệp đã được tạo dựng lại. Tình nghĩa đồng bào đậm đà thắm thiết trên mảnh đất lành của phương Nam được nhạc sĩ Xuân Tiên cảm đề với lời ca tuyệt vời trong bản Khúc hát ân tình, bài nhạc mà ai ai cũng gọi bằng tên rất thân thương là bài Tình Bắc duyên Nam. Lời ca đẹp và hiền hòa như tấm lòng Người Mẹ chung của trăm con với tình yêu thương bao la chan hòa cho tất cả:
Người từ (là từ) phương Bắc đã qua dòng sông (sông) dài
Tìm đến phương này, một nhà thân ái
Ôi! Tình Bắc duyên Nam (là duyên) tình chung muônđời ta đắp xây
Gặp nàng (nàng) là thôn nữ mắt duyên cười say
môi hồng tình ngát đôi lòng mộng vàng chung bóng
Ôi! Mạch đất dâng hương (là hương) cần lao chung đời vai sát vai
Cùng góp bàn tay thương yêu nhau rồi
Ngô khoai hai mùa ngát một niềm vui (chung vui)
Cho thơm hương đời lúa vàng tình ơi
Ngày mai hạnh phúc nơi nơi reo cười
Quê hương thôi đau sầu ngăn sông cách núi
Ta đem yêu thương về cho phương Bắc
Ôi! Đời sống yên vui (là vui) Dìu nhau đi vào chung bóng mơ.
Lời phát biểu huênh hoang của Lê Duẩn
Nói chung, người dân miền Nam lúc đó có cuộc sống sung túc, có bát ăn bát để, và được hưởng một nền tự do dân chủ khá cao so sánh với các nước Đông Nam Á. Nhưng than ôi! Hạnh phúc không được hưởng trọn vẹn vì chiến cuộc đang leo thang gây đổ nát tang tóc khắp nơi nơi và khắp mọi nhà. Cuộc chiến trong khoảng thời gian đó, giới truyền thông Tây phương thường gọi là cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ hai, là một cuộc chiến tranh không cần thiết, do Đảng Cộng sản gây ra để nuốt trọn miền Nam sau khi đã chiếm miền Bắc, một cuộc chiến tranh mà Tổng bí thư Lê Duẩn đã huênh hoang phát biểu (Trích Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên, trang 422): “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta!”
Dân tộc hãy đọc thật kỹ lời phát biểu trên. Đúng là lời nói của kẻ đâm thuê giết mướn. Hiển nhiên là như vậy, vì đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, v.v… chứ nào có đánh cho Dân tộc đâu? Rõ ràng Lê Duẩn đã nói thế kia mà! Trong một bài nói chuyện nội bộ, Lê Duẩn đã huênh hoang như vậy và Chế Lan Viên lấy hứng làm chủ đề cho bài thơ ca ngợi hòa bình: “Hỡi những con thỏ hòa bình. Đang tìm nơi gặm cỏ. Súng ta nổ cũng là vì ngươi đó...” Than ôi! Nhà thơ đòi nổ súng giết ai để bảo vệ hòa bình?!
Trong khi Lê Duẩn tự hào về việc đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và đánh cho Trung Quốc, thì Dương Thu Hương, người nữ đảng viên một thời đã hăng say trong chiến dịch Tiếng hát át tiếng bom bên cạnh các bộ đội tiền tuyến, đã tỉnh cơn say Đảng và tàn giấc mê Hồ, để ngộ rằng đó chỉ là cuộc bắn giết giữa anh em Nam Bắc một nhà. Người nữ sĩ, mắt đẫm lệ, ngồi ở lề đường của Sài Gòn vừa được mang tên mới là thành phố Hồ Chí Minh, đã ân hận nhận ra rằng “Cuộc chiến tranh chống Mỹ là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất trong lịch sử Dân tộc”. Không ngu sao được nếu ta nhìn sang nước Phi Luật Tân láng giềng được độc lập ngày 4-7-1946. Đáng lý ra Phi Quốc phải được độc lập đúng một năm trước đó, tức là ngày 4-7-1945, theo tinh thần ước kết 10 năm trước giữa hai nước Mỹ và Phi.
Phi được độc lập đúng ngay ngày Quốc khánh của Hoa Kỳ
Nhắc lại lịch sử tranh thủ độc lập của Phi Luật Tân, trong quyển Giải thể chế độ Cộng sản, tác giả Luật sư Nguyễn Hữu Thống viết (trang 180): “Đầu thập niên 1930, Luật sư Quenzon, lãnh tụ đảng Quốc gia Phi Luật Tân đã tới Hoa Thịnh Đốn để vận động Quốc hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm 1934, Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khoản quy định rằng, 10 năm sau, đúng ngày Quốc khánh Hoa Kỳ (4-7-1945), Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập.”
Tại sao Phi Quốc phải bị độc lập trễ một năm? Vì lẽ Phi còn bị quân đội Thiên hoàng Phù tang chiếm đóng cho nên Đại tướng MacArthur phải điều động quân đội Mỹ đổ bộ lên đất Phi ở điểm Lingayen, một thành phố nhỏ phía Bắc Manila, để giải phóng toàn bộ nước Phi, và trong nội địa Phi, lực lượng Quốc gia Phi còn phải thanh toán những ổ kháng cự lẻ tẻ của Nhật.
Và tại sao là ngày 4 tháng 7? Khi Hồ Chí Minh chôm chỉa lời hay ý đẹp trong bài Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ để viết bản Tuyên ngôn Độc lập của mình - chỉ để lường gạt Dân tộc Việt Nam - và tuyên đọc ở quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, ông có biết rằng ngày 4 tháng 7 là ngày Quốc khánh của Mỹ Quốc hay không? Hồ Chí Minh có biết rằng Mỹ Quốc trao trả Độc lập cho Phi Quốc đúng vào ngày Quốc khánh của mình vì một nghĩa cử cao đẹp muốn Dân tộc Phi cũng được hạnh phúc mừng Độc lập cùng một ngày với Dân tộc Hoa Kỳ hay không? Hồ Chí Minh và Đảng có biết chăng Mỹ đã thực hiện một cuộc đổ bộ đầy đảm lược (mà cường độ về quân số tham chiến chỉ kém có cuộc đổ bộ ở miền Bắc nước Pháp) để đất nước Phi được hoàn toàn giải phóng trước khi trao trả lại cho Dân tộc Phi? Nước Phi có diễm phúc như thế là vì Phi có đảng Quốc gia chứ không phải như Việt Nam có cái đảng ăn hại và dối trá mang đủ thứ tên như đảng Cộng sản Đông Dương, hội Nghiên cứu Mác Lê, đảng Lao Động, có lúc lại giải tán đảng, rồi sau cùng khi chiếm đoạt hết cả nước mới tự nhận là đảng Cộng sản Việt Nam! Dân tộc Phi được may mắn là nhờ định hướng chính trị đúng của Luật sư Quenzon đã đến ngay Quốc hội Hoa Kỳ để tranh thủ nền tự trị và độc lập cho nước mình. Trái lại, Dân tộc Việt Nam thì quá bất hạnh vì Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian đó còn đang chăm lo học nghề làm Cộng sản với Sư phụ Stalin ở thủ đô Mạc Tư Khoa của Liên Xô!
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản có biết chăng Phi nhận nền độc lập từ tay Mỹ mà không đổ một giọt máu, không tốn một nhân mạng? Nước Mỹ hành xử đẹp như thế đối với Phi thì Mỹ nào đâu có lòng tham, muốn xâm lăng chiếm cứ đất đai của ai, tại sao Hồ Chí Minh cứ tuyên truyền và phát động cuộc chiến tranh Chống Mỹ cứu nước sát hại và gây thương tật biết bao nhiêu triệu người cả Bắc lẫn Nam? Xử dụng đến cạn kiệt xương máu của Dân tộc để dồn cho chiến trường miền Nam, riêng tỉnh Thanh Hóa đã động viên tới 450 ngàn bộ đội, nhiều xã không còn bóng dáng thanh niên. Lê Duẩn đã quyết tâm rằng nhân dân ta dù có mặc quần xà lỏn, đốt đuốc cũng đánh Mỹ tới cùng. HCM trước khi chết cũng nhắn nhủ “các cháu của Bác” là dù có cháy cả dải Trường Sơn cũng phải chiến đấu đến cùng. Tội ác gây ra cuộc chiến tranh nầy, nếu không phải HCM, thì ai chịu trách nhiệm?
Chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Trước khi viết về Trịnh Công Sơn, chúng ta nên biết qua về hai nhạc sĩ đàn anh tài hoa là Phạm Duy và Văn Cao. Nhạc sĩ Phạm Duy tham gia kháng chiến rất sớm, ngay từ những ngày tháng đầu tiên năm 1945. Ông đã tham gia kháng chiến ở Nam Bộ, ông đã có mặt ở Liên khu 4 Thanh Nghệ Tĩnh, và có mặt ở chiến khu Việt Bắc. Ở khắp nơi ông đã trình diễn và sáng tác những bài ca nêu cao tinh thần kháng chiến chống Pháp. Đến khi ông sáng tác bài Bên cầu biên giới thì Đảng không chấp nhận và ra lịnh cho ông phải khai tử bản nhạc. Quyền tự do sáng tác bị xâm phạm, một trong những lý do khiến nhạc sĩ Phạm Duy dinh tê và sau đó vào Nam (năm 1951). Thật may cho nhạc sĩ, nhưng may mắn cho Dân tộc thì lớn lao vô cùng! Như cá gặp dòng nước trong bơi lội nhởn nhơ và hóa thành rồng, với thiên tài về nhạc, hồn nhạc trong ông bay lượn trong bầu không khí tự do của miền Nam, và với sức sáng tác phi thường, nhạc sĩ Phạm Duy đã cống hiến cho Dân tộc cả một kho tàng âm nhạc vô giá. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đọc lại chuyện xưa, mới thấy rằng nền Tự do của VNCH ở Miền Nam vào thuở đó thật đáng quý!
Nhạc sĩ Văn Cao là tác giả bài Tiến quân ca mà Đảng Cộng sản dùng làm Quốc ca. Ông không dinh tê như nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1952, ông được Đảng cho đi Liên Xô tham quan như một chuyến hành hương về Đất tổ để chiêm ngưỡng XHCN của nước Cộng sản Liên Xô đàn anh. Chuyến đi làm ông thất vọng. Trở về Hà Nội, ông ngẩn ngơ như người mất hồn! Chợt đến phong trào đấu tranh Nhân văn Giai phẩm, ông bị khai trừ khỏi hội văn và hội vẽ. Ông chỉ còn ở trong hội nhạc nhờ là tác giả của bài Quốc ca nhưng cũng chỉ làm vì.
Theo nhà phê bình Văn học Nguyễn Mạnh Trinh trong bài Văn Cao, thơ của những giấc mơ, ta đọc được dòng chữ u buồn: “Suốt mấy chục năm, Văn Cao phải lặng lẽ sống âm thầm sáng tạo trong đớn đau, trong cảnh túng quẫn. Dường như ông không viết bài hát nữa mà chuyển vào những tiểu phẩm nhạc không lời “Hàng dừa xa”, “Sông tuyến”, “Biển đêm”, ông dằn lòng viết những câu thơ không in, vẽ minh họa để kiếm chút “tiền còm” bởi thúc bách của đời sống thường nhật”. Kết luận: thiên tài của nhạc sĩ Văn Cao bị mai một trong chế độ XHCN của Hồ Chí Minh!
Chợt đến thập niên 60, ngôi sao âm nhạc Trịnh Công Sơn rực sáng! Nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác đáp đúng thị hiếu của thanh thiếu niên, nên bài nhạc nào cũng được đón nhận nồng nhiệt, nhất là những bản phản đối chiến tranh thường được gọi là nhạc phản chiến. Nhạc sĩ được tự do sáng tác, không bị Chế độ miền Nam bắt phải khai tử bản nhạc nào như trường hợp nhạc sĩ Phạm Duy phải khai tử bài Bên cầu biên giới khi sống với Đảng! Cũng vào thời điểm đó, vào khoảng tháng 9 năm 1963, trong dịp đi nghỉ mát ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh gặp Chu Ân Lai và Trần Nghị và phát biểu về quyết tâm chiến đấu ở miền Nam như sau: “Đừng nói phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh.”
Trích câu phát biểu đầy sắt máu của Hồ Chí Minh, người viết xin tri ân tác giả Minh Võ đã nghiên cứu Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử để tô vẽ thật rõ nét bộ mặt hiếu chiến hiếu sát của Hồ Chí Minh cùng sự dàn dựng bộ máy chiến tranh để tàn phá phần Đất nước ở phương Nam. Vào lúc đó, hai nước Đức Quốc và Hàn Quốc cũng bị phân chia làm hai như Việt Nam. Nhưng chính quyền Cộng sản lãnh đạo Đông Đức và Bắc Hàn không chủ trương đánh phá Tây Đức và Nam Hàn như Bắc Việt của Hồ Chí Minh đã làm! Do đó Tây Đức và Nam Hàn được thanh bình để chăm lo phát triển vùng đất của mình, và chẳng bao lâu sau, Tây Đức thành cường quốc kinh tế bậc nhất ở Âu Châu và Nam Hàn thành một trong 9 nước tân tiến đứng đầu về kỹ nghệ cơ khí. Còn Hồ Chí Minh đã làm gì? Ông đã đưa cả triệu thanh niên miền Bắc, kể cả những người “lính cái” (chữ của Dương Thu Hương), phải sanh Bắc tử Nam gây ra cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sát hại và gây thương tật hàng triệu người cả hai bên chiến tuyến!
Lãnh tụ Hồ Chí Minh là thủ phạm dàn dựng thật tỷ mỷ trọn vẹn bộ máy chiến tranh đánh chiếm Miền Nam với ý chí sắt đá “dù cho cuộc chiến dài 10 năm, 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng đánh”. Dàn dựng con cờ bù nhìn Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chưa đủ, tên đại mưu sĩ Hồ Chí Minh còn thiết lập thêm một chính đảng bù nhìn cho Mặt trận là đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam cho trọn bộ sậu. Đúng ra Hồ Chí Minh chỉ chẻ đảng Cộng sản ra làm hai, những đảng viên ở miền Nam, ông cho hóa trang và cho mặc áo Nhân dân Cách mạng Miền Nam, thế thôi. Bởi thế cho nên tất cả những hành động phản đối chiến tranh, tuyệt thực và xuống đường đòi hòa bình, viết bài phản chiến, đặt nhạc phản chiến mà không nhắm vào thủ phạm Hồ Chí Minh, không nghiêm khắc kết tội ông, thì có khác nào là đồng lõa với ông, giúp ông đoạt được chính nghĩa mà đáng lý ra ông không có!
Cùng một ý tương tự, tác giả Sắc Không, trong Nguyệt san Làng Văn trang 101, đã viết như sau: “Miền Nam, trước 1975, những loại thơ văn nhạc “phản chiến” chỉ phản chiến được với phía tự vệ, không phản chiến với phía gây chiến. Cộng quân vẫn tiến ào ào”.
Nhân đây xin nhắc lại lời tuyên bố của Trotsky trước Nghị viện Amsterdam khoảng năm 1932 (Trích Lời giới thiệu của Vũ Huy Quang cho quyển Hồ sơ Đệ tứ tập 3, của nhóm Đệ tứ Việt Nam tại Pháp, xuất bản năm 2004, trang 15). Lời tuyên bố của Trotsky về phản chiến như sau: “Viết bài trên báo, đi biểu tình, tuyên dương hòa bình bằng lý sự luân lý để chống chiến tranh… mà không biết guồng máy phát động… chỉ là những tiếng be be của bầy cừu trước con dao đồ tể”.
Những chiến sĩ của Quân lực VNCH đem xương máu ngăn chận Làn sóng đỏ để bảo vệ tự do, dân chủ, và nhân quyền cho miền đất đẹp ở phương Nam tất nhiên không mấy hài lòng về tính chất phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn! Tuy nhiên, nhạc của ông hay vô cùng!
Cần viết thêm rằng sau khi Đảng chiếm đoạt miền Nam, Đảng ra lịnh cấm không cho hát bài Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn, cùng với vô số bài nhạc khác của các nhạc sĩ miền Nam! Một hành động thật hạ cấp vô văn hóa và ngu xuẩn chỉ để cho Dân tộc thương tiếc ngẩn ngơ khoảng thời gian vàng son khi không có Đảng! Khi Đảng ra đời, thì Dân tộc mất tất cả!
Từ Paris Võ Văn Ái nhận xét
Từ nguồn Gió-o, bài phỏng vấn nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, lãnh tụ trí thức đấu tranh Nhân quyền số một ở hải ngoại, do Lê Thị Huệ thực hiện ngày 1-11-2009:
Lê Thị Huệ: Ông có thể khai triển rõ hơn về phe phản chiến do Liên Xô điều động?
Võ Văn Ái: Trong thế giới có phong trào này phong trào kia phát động. Nhìn từ bên ngoài là sự tự phát, nhưng từ cơ bản đa số do các khuynh hướng chính trị hay đảng phái giật dây. Phong trào phản chiến hay phong trào hòa bình hồi đó cũng vậy. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời ấy, Hà Nội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn, nên Liên Xô thông qua các đảng địa phương ở Âu Châu phát động rầm rộ một phong trào rộng lớn ủng hộ cho “Hòa bình Việt Nam”. Nói là hòa bình Việt Nam, nhưng kỳ thực là ủng hộ cuộc chiến tranh do Hà Nội chủ súy. Phe Cộng sản quốc tế bỏ tiền mua các cơ quan truyền thông, báo chí, kích động các phong trào quần chúng, đặc biệt giới sinh viên đại học xuống đường kêu gọi “Hòa bình Chống Mỹ.
Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ nhất
Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!” (Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26).
Nhóm Việt Cộng đó muốn gì? Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam muốn gì? Lúc đó Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ phủ muốn gì? Tại sao lại lựa em bé nhỏ nhất để chặt ngón tay? Tại sao lại cấm học sinh đi học? Nếu thật tâm vì chính nghĩa cao đẹp Giải phóng Miền Nam khỏi ách kềm kẹp của Mỹ Ngụy thì tại sao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lại xử dụng phương cách hèn hạ tàn nhẫn đối với trẻ thơ như vậy? Với những câu hỏi “Tại sao?” dồn dập như trên, câu trả lời chỉ có thể là Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã chiếm đoạt được miền Bắc rồi, không lo xây dựng phát triển miền Bắc, mà chỉ lo tiếp tục gây chiến để cướp đoạt miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ hành động khủng bố đê hèn nào! Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.
Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.
Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi
Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của ký giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):
“Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”
“Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”
Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của VNCH nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.
Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn
Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là Giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!
Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!
Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).
Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy
Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương.
Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?”
Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội
Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “Quê hương năm tấn”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:
- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?
- Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.
- Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?
- Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.
- Chúng mày không sợ chết à?
- Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.
Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đã diễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):
“Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.”
Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoại hỏi tác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng: “Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.”
Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ
Lần giở lại những trang Hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy, người đã dinh tê về Hà Nội và sau đó vào Nam năm 1951, tức là 3 năm trước phong trào Di cư, nhà soạn nhạc tài ba ấy khi di tản ra nước ngoài mới tỏ ý hối tiếc rằng đã không hề trước tác một bài nhạc nào để ca ngợi thành phố Sài Gòn, nơi ông sống những ngày phong phú nhất đời ông. Xin trích Hồi ký Phạm Duy, thời phân chia Quốc Cộng (tr.399):
“Hơn 20 năm sống ở Sài Gòn mà tôi không có một tiếng hát nào cho thành phố nơi tôi sống những ngày phong phú nhất đời mình. Sài Gòn không phải chỉ có con đường Duy Tân cây dài bóng mát để tôi đưa người tình đi học. Tuy cũng có Y Vân “Ghé bến Sài Gòn” để thấy Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi... Và có thêm Hoàng Anh Tuấn cùng với Phạm Đình Chương nhìn mưa Sài Gòn để nhớ tới mưa Hà Nội (bản “Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội”)... nhưng nói chung, lũ nhạc sĩ chúng tôi rất vô ơn đối với Sài Gòn.”
Thật vậy, thành phố Sài Gòn đáng được ca ngợi! Sài Gòn ngày xưa vừa đẹp lại hiền! Miền Nam trù phú và đầy tình người là mảnh đất lành đáng sống thật! Và nhạc sĩ Phạm Duy lại viết tiếp lời an ủi: “Phải bỏ xứ ra đi, phải sống trong thành phố bị đổi tên, rồi mới hối hận để có khá nhiều nhạc sĩ lưu vong hay ở trong nước hối hả soạn ra sau ngày 30-4-75 những bài như “Sài Gòn ơi vĩnh biệt”, “Sài Gòn bây giờ buồn không em”, “Sài Gòn vĩnh biệt tình ta”, “Sài Gòn niềm nhớ không tên”, “Sài Gòn của tôi”, “Sài Gòn ôi thôi đã hết”… Con người là thế đó, có viên ngọc trong tay không biết giữ, mất rồi mới tiếc ngẩn tiếc ngơ!”
Và những ngày tháng năm từ khi Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh năm 1949 với danh vị Quốc trưởng, qua Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm, và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975, trong khoảng thời gian đó, chúng ta đếm được những ngày tháng năm đẹp nhất và đáng sống nhất của thế kỷ 20!
Chỉ riêng về môn túc cầu, những người ái mộ hẳn rất tự hào với thành tích của đội tuyển nhà trước 1975. Theo lời cựu tuyển thủ Nguyễn Văn Ngôn tức Ngôn 1 trả lời biên tập viên SS của tuần báo Sức sống tại Little Saigon (Số Xuân Tân Mùi 1991): “Nền túc cầu Việt Nam lớn mạnh nhứt vào năm 1964. Tôi còn nhớ, trong giải túc cầu thế giới Đội tuyển VN đã hạ đội Do Thái 2-0 tại Tel Aviv ở vòng loại. Và đến năm 1968 tại Thái Lan, tranh giải khu vực để đại diện Á Châu tham dự Thế vận hội, Đội tuyển VN đã hạ các nước Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương. Rất tiếc, cũng năm đó vì tình trạng chiến tranh (Tết Mậu Thân) đã làm hỏng cơ hội tham dự Giải Thế vận tại Iran của đoàn tuyển thủ VN (sau đó đội Đại Hàn đứng thứ nhì bảng thay thế). Một thành tích khác cũng lừng lẫy là đoàn cầu VN đã mang về chiếc cúp vô địch Á Châu tranh tại Mã Lai: Đó là giải Merdeka 1966”.
Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau
Không phải như những báo cáo láo của Việt Cộng theo như nhận xét “3 chữ D: Dại Dốt Dối” của Giáo sư Phạm Thiều, bản thống kê về tình trạng kinh tế của Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau do học giả Đỗ Thông Minh ở Nhật sưu tầm (từ Economic Bulletin / Singapore ngày 14-4-2007 trang 738) đã trưng dẫn rất chính xác sự huy hoàng về kinh tế của miền đất phương Nam vào thời Đệ nhất Cộng hòa so sách với 35 năm sau dưới chế độ XHCN. Bản thống kê về Lợi tức Đầu người trong 50 năm qua như sau:
Năm 1956 Năm 2006
Nhật 215 đô 30.000 đô
Đài Loan 121 12.000
Mã Lai 246 4.520
Thái Lan 64 2.450
Indonesia 87 1.150
Nam Việt Nam 144 Việt Nam 550
Bản thống kê nói lên sự phát triển kinh tế quá chậm theo kiểu kinh tế thị trường với định hướng XHCN của Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa của miền Nam hơn nhiều nước. Đến năm 2006, dưới sự điều hành của Đảng, CHXHCN Việt Nam đứng hạng chót và thua xa các nước lân bang. Than ôi! Thành tích của những Đỉnh cao Trí tuệ Loài người!
Gần đây nhất, nhân ngày 30-4-2008, từ Paris, Bùi Tín viết bài Giải phóng ư? Độc lập ư? Bài viết ngắn, lời văn tâm tình thật cảm động, Bùi Tín đã thật sự bước vào cuộc Đại đoàn viên của Dân tộc và trong tình thương yêu bao la đó, ông thốt lên những lời kêu gọi chân tình:
“Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào Dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.
“Để làm gì cơ chứ? Để đất nước ra nông nổi này ư ? Độc lập, KHÔNG! Tự do, KHÔNG! Chủ quyền, KHÔNG! Về mặt nào Việt Nam cũng đứng dưới 100 nước khác!
“30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bạn bè và đồng chí cũ của tôi, hãy quý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình. Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt Nam tỉnh táo và tử tế tranh đấu cho một Tổ quốc Việt Nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời đại”.
Miền Nam tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ
Vào cuối thập niên 60, với sự điều hợp của Giáo sư Nguyễn Văn Bông cùng một số Dân biểu Hạ viện, Miền Nam đã thiết lập được Dự thảo Quy chế Đối lập. Đây là cái mốc thật quan trọng trên lộ trình xây dựng dân chủ Miền Nam đã đạt được. Một điểm son rực rỡ đáng được ghi vào lịch sử Dân tộc, nhất là vào lúc đó Miền Bắc tung hết sức mạnh quân sự và tuyên truyền để đánh chiếm Miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ một hành động khủng bố và tuyên truyền xảo quyệt nào. Xin mở ngoặc để viết đôi dòng về Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Ông sinh năm 1929 tại làng Kiểng Phước thuộc miền duyên hải của tỉnh Gò Công ngày xưa. Ông nội làm nghề thợ bạc, cha làm thợ sửa xe đạp. Ông nhà nghèo nhưng may mắn nhận được học bổng để học trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Rồi ông sang Pháp du học bằng vé tàu hạng chót nằm dưới boong tàu. Đến Pháp, ông vừa làm vừa học, lần lược đậu Tú tài, Cử nhân, và đến năm 1960 ông đậu Tiến sĩ Luật khoa. Ba năm sau, Nguyễn Văn Bông tạo thành tích trong lịch sử sinh viên du học vang danh là người Việt Nam đầu tiên đậu bằng thạc sĩ Công pháp Quốc tế. Ông được mời về nước dạy tại Đại học Luật khoa. Đến 1964, ông được cử vào chức Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh. Ông đã góp phần rất lớn trong việc đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh tài ba cho Đất nước. Chế độ Miền Nam, với Dự thảo Quy chế Đối lập, đã tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người chiến sĩ tài ba xây dựng dân chủ cho Dân tộc, đáng buồn thay, đảng Cộng sản lại xem là kẻ thù cần phải tiêu diệt! Chúng đã âm mưu sát hại Giáo sư 3 lần, đến lần thứ ba mới thành công! Ngày 10-11-1971, lúc 12 giờ trưa, Giáo sư bị Việt Cộng giết bằng chất nổ quăng vào dưới xe của ông khi ông đang trên đường từ Học viện về nhà. Ngọn lửa thiêng Dân tộc được thắp sáng từ thời Trưng Triệu xa xưa tạo thành Hồn thiêng Sông núi, từ nay với anh linh của Giáo sư Nguyễn Văn Bông hòa nhập vào, xin hãy soi đường dẫn lối cho du sinh Việt Nam học thành tài về nước xây dựng nền dân chủ tiến bộ và tránh xa chế độ Cộng sản độc tài sở trường dùng khủng bố giết người bịt miệng để cai trị. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đảng Cộng sản vẫn còn lúng ta lúng túng với chế độ độc tài đảng trị không chấp nhận đối lập, làm chủ tất cả các báo và đài để giết tự do ngôn luận, thành lập Giáo hội Quốc doanh để giết tự do tín ngưỡng, thành lập Nghiệp đoàn Quốc doanh đứng về phía Tư bản nước ngoài để bóc lột công nhân Việt Nam… Bức màn sắt, Bức màn tre, Bức tường ô nhục Bá Linh vang bóng một thời xa xưa thì nay đã bị dẹp bỏ và vất vào sọt rác lịch sử rồi. Nhưng Bắc Bộ phủ của đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược chiều lịch sử, lại thiết lập Bức tường lửa để ngăn chận thông tin điện tử từ thế giới bên ngoài, và buông thả công an đi khắp nơi để đàn áp Dân tộc vô cùng thô bạo! Cứ mãi bịt mắt, bịt tai, bịt miệng Dân tộc mà cứ tự đề cao là “Cách mạng”!
Tình người của miền đất Phương Nam
Người cán bộ văn hoá vận Vũ Hạnh của đảng Cộng sản đã có phúc duyên được sống để nằm vùng trọn vẹn ở miền Nam trong những ngày tháng năm đẹp đó. Xin nhắc lại đôi dòng về Vũ Hạnh. Nhà văn sinh năm 1926 tại Thăng Bình, Đà Nẵng, theo Cộng sản từ năm 1945, sau hiệp định Genève, ông được phân công nằm vùng ở miền Nam. Ông là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu như Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu Văn nghệ, truyện dài Chất ngọc, Cú đấm, vân vân... nhưng nổi tiếng nhất là quyển Người Việt cao quý ẩn dưới bút danh A. Pazzi. Nhiều lần bị chế độ Sài Gòn bắt bỏ tù vì chống lại bằng tác phẩm và hành động. Tuy vậy, Vũ Hạnh cũng được nhiều người giúp đỡ và bảo lãnh như các linh mục Chân Tín và Thanh Lãng. Cả đến văn thi sĩ Hà Thượng Nhân, tức là trung tá Phạm Xuân Ninh, lúc phụ trách ngành tâm lý chiến về các lãnh vực Chính huấn, Phát thanh và Báo chí cũng vì tấm lòng thơ mà tế độ nhiều lần cho Vũ Hạnh. Trong quyển Quê hương bạn hữu tù đầy của Trần Dạ Từ, chúng ta được biết thêm về Vũ Hạnh như sau:
“Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quý Chung, chuyên viết những chuyện kháng chiến đường rừng. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.”
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét