I. VAI TRÒ CỦA LÊ DUẨN
Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính
trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền
thống nhất.
Vì nhiều lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa
được giải mật, cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết
được hết mức độ ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính
sách của Việt Nam mấy chục năm qua.
Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức
hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò
và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam.
Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo (“Le Duan and the
Break with China”, 2001), Lê Duẩn là một trong những người miền
Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp thỏa
hiệp.
Làm cách mạng
Sinh ra ở Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia “Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội“ năm 1928 và là thành viên sáng lập Đảng Cộng
sản Đông Dương năm 1930.
Năm 1931, ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được
bổ nhiệm làm Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối năm đó, ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936,
được trả tự do sau khi phong trào Mặt trận Bình dân lên nắm
quyền ở Pháp và ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.
Lê Duẩn bị bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Các nhà tù thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các “đại
học cách mạng” nơi có việc tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin
và tuyển mộ người cho Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông
trở thành nhà cách mạng cứng rắn và không ngại thử thách.
Sau khi ra tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi chiến tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức
Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục miền Nam) cho
đến năm 1954, năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp
định Geneva về Việt Nam và Đông Dương được ký kết.
Hòa hay chiến?
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định
Geneva được ký, nhiều cán bộ kháng chiến miền Nam đã rất thất
vọng.
Sau khi tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà
Hiệp định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc giục
Hà Nội chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Nhưng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là Đảng Lao Động) không muốn thông qua phương án này.
Theo giáo sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade, Honolulu, người
viết một tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò của Lê Duẩn,
đã tìm cách giải thích cho sự miễn cưỡng của ban lãnh đạo
Bắc Việt lúc đó.
Thứ nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc
Việt thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất và tập thể
hóa. Nhưng chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính.
Thứ hai, lực lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau
tám năm đánh Pháp.
Thứ ba, Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào
lúc này, nhiều người trong Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm
của Bắc Kinh và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự vào
miền Nam nếu không bị khiêu khích và sự sống còn của chính
phủ Sài Gòn không bị đe dọa.
Cuối cùng, Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán
thành chính sách “chung sống hòa bình” của Nikita Khrushchev.
Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối
đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế
với khối tư bản.
Theo giáo sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng
Bắc Việt không mở lại giao tranh, mà – cùng với Bắc Kinh – còn
thúc giục Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác
biệt với chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.
Không muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác
bỏ chiến lược mới của Moscow và ủng hộ đấu tranh vũ trang. Hà
Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu thúc đẩy chính sách vũ
trang vượt qua giới tuyến 17.
Sau Phiên họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám –
Chín 1956, Tổng Bí thư Trường Chinh bị buộc từ chức sau những
sai lầm của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Ông Hồ Chí Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho
đến khi tìm ra một ứng viên thích hợp cho vị trí này.
Cuối năm ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp
hành, ông Lê Duẩn gửi ra Hà Nội Đề cương cách mạng miền Nam, một
trong những tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt Nam sau
1954.
Tài liệu này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc
họp của cán bộ miền Nam ở Phnom Penh đầu tháng 12-1956, trước
khi ông Lê Duẩn chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà
Nội.
Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự gia
tăng hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam, một quyết định sau
đó được Bộ Chính trị thông qua.
II. BẮT ĐẦU THÂU TÓM QUYỀN LỰC
Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu việc Đảng Cộng sản ra công
khai sau khi đã tuyên bố “tự giải tán” vào tháng 11-1945.
Cũng tại Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết định đổi tên thành Đảng Lao Động.
Năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và
chọn ông làm quyền Tổng Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.
Quyết định đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của Đảng về tình hình ở miền Nam.
Sau này, viết trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng Bảy
1969), nhà cách mạng miền Nam Trần Văn Giàu xác nhận giai đoạn
1957-59 là “những ngày đen tối nhất” cho phong trào cách mạng ở
miền Nam.
Tuy vậy, mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở
miền Nam, chính sách của Đảng Cộng sản lúc này không xem việc
đẩy mạnh bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn thể
lần thứ 14 vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét
tình hình ở miền Nam, mà đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển
kinh tế và văn hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được Quốc hội
và Bộ Chính trị thông qua.
Ông Lê Duẩn không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng
trước đó, Bộ Chính trị cử ông vào miền Nam để đánh giá tình
hình. Khi quay về Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn
là nhiều bí thư đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần
Lương và Võ Chí Công.
Tại phiên họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những người này
đã mô tả về “phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam chống Mỹ –
Diệm” và thúc giục Ban Chấp hành TƯ ủng hộ cuộc đấu tranh vũ
trang.
Theo nhận định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của giáo
sư Pierre Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo cáo của ông Lê
Duẩn và các đồng chí miền Nam “nắm bắt cảm giác thất vọng
của những người chiến đấu và ủng hộ cuộc cách mạng ở miền
Nam.”
Họ cũng thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng
chiến miền Nam muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng
tăng của Mỹ dành cho chính quyền Sài Gòn.”
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó
một mặt vẫn nhấn mạnh cách mạng ở miền Nam “có khả năng hoà
bình phát triển”, nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương hướng “khởi
nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ – Diệm.”
Nghị quyết 15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền Nam vào cuối thập kỷ 1950.
Quyết định tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết
định tại Hội nghị Trung ương 15 tổ chức tháng Giêng 1959, nhưng
chỉ được chính thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng
thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.
Hà Nội cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền
Nam bằng việc gửi quân và tiếp viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận
mang bí số 559 được thành lập để “mở đường tiếp vận cho mặt
trận phía nam.” Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên
lên đường vào Nam qua tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn (‘đường
mòn Hồ Chí Minh’).
Có thể nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo
cách mạng miền Nam, trong đó có Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị
thông qua nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp
hành TƯ phản đối. William Duiker (trong quyển ‘Hồ Chí Minh’,
2000) nhận xét đa số lãnh đạo trong Đảng “đồng ý rằng đấu
tranh vũ trang có thể là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã
thất bại.” Tuy nhiên, vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều
người ở miền Bắc không tin rằng các “lựa chọn” khác đã được
cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa chín muồi để chuyển sang chính
sách đấu tranh vũ trang.
Pierre Asselin cho rằng “nếu không có sức ép lớn của miền Nam
lên ban lãnh đạo miền Bắc, thì Nghị quyết 15 – quyết định tái
bắt đầu chiến sự sau sáu năm gián đoạn – đã không được thông
qua.”
Tổng Bí thư chính thức
Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào
tháng Chín 1960. Nghị quyết đại hội kết luận cách mạng Việt Nam
sẽ đồng thời thực hiện hai mục tiêu: “tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc” và “giải phóng miền Nam.”
576 đại biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và là người đứng đầu Bộ Chính trị.
Vì sao lại là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ Nguyên
Giáp, người được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ sau ông Hồ
Chí Minh?
Theo giải thích của ông Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết, ưu
thế của ông Lê Duẩn là vì “một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu
năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, vì từ đó
được coi là được thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn.”
Hoàng Tùng, trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí Cộng sản, cũng
nói Lê Duẩn là người “hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung,
Nam lâu dài nhất, thời gian ở tù lâu nhất” và có “quan hệ rộng với các
đồng chí thuộc cả hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật.”
Tuy nhiên, “nhược điểm” ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến việc ông Duẩn được chọn.
Tính chất của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở
thành một ứng cử viên thích hợp hơn. Thứ nhất, niềm tin của
ông Lê Duẩn vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên
tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp
hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” (Nghị quyết
Đại hội Ba.) Thứ hai, và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt động
của Lê Duẩn ở miền Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức
và uy tín có thể giúp mục tiêu “giải phóng miền Nam” và điều
hòa sự hợp tác giữa cán bộ hai miền.
Ralph Smith (trong quyển “An International History of the Vietnam War”,
1983) cũng ghi nhận thêm một chi tiết: thành công của ông Lê
Duẩn ở Đại hội Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức cơ
cấu lãnh đạo mà sẽ kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập
niên sau đó.
Ralph Smith chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước đã
được loan báo ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu tiên của
Quốc hội mới bầu ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục là thủ tướng,
với năm phó thủ tướng (trong đó có Võ Nguyên Giáp và Phạm
Hùng); nhưng ông Trường Chinh không còn là phó thủ tướng mà
chuyển sang làm chủ tịch Quốc hội. Những người thân cận của
ông cũng bị đưa ra khỏi chính phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và
Lê Văn Lương không còn có mặt trong Bộ Chính trị.
Tại Đại hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình
thành gồm các ông: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh,
Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn
và Văn Tiến Dũng được bầu là thành viên dự khuyết.
Pierre Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối
với công việc của Đảng Lao động và chính phủ còn hạn chế.
Xung quanh ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh
hưởng, phong độ và được quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh
và Võ Nguyên Giáp, những người cổ vũ cho đường lối thận
trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính
trị đã thông qua Nghị quyết 15.”
Kết quả là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn
thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm
của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù
Nghị quyết 15 đã được thông qua từ năm 1959, nhưng ngay cả sau
Đại hội Ba năm 1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa
thúc ép ban lãnh đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ
Chí Minh và nhiều lãnh đạo khác cảm thấy còn nhiều vấn đề
cản trở việc vạch ra một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác
động có thể có đối với Moscow, Bắc Kinh và Washington.
Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh chóng
thay đổi. Chỉ sau vài năm kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư,
ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.
III. CUỘC ĐẤU TRANH TRONG NỘI BỘ
Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu làm
Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của
mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê
Duẩn thời kì đầu được Thượng tướng Trần Văn Trà kể lại trong
quyển Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng (1992).
Một ngày của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về
cuộc chạm súng giữa một trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và
nhóm quân của những người kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Theo
bản tin, hai bên rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương
vong. Ông Trà rất ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC
sai lạc, hoặc khả năng tác chiến của những cán bộ kháng chiến
miền Nam cần được cải thiện.
Ngày hôm sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê
Duẩn và nói cần đưa cán bộ tập kết vào Nam để tăng cường đào
tạo cho các đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị
gửi 100 cán bộ trẻ từ Bắc vào Nam.
Ông Lê Duẩn ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính
trị chưa quyết. Khi ông Trà nhấn thêm, ông Duẩn hỏi liệu có
giảm số lượng được không.
Con số mới đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách
nhiệm nếu con số nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, họ đồng ý về con
số 25 người.
Tuy vậy, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá vỡ.
Chiếm ưu thế
Những nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông
Hồ Chí Minh mất dần ảnh hưởng trong tiến trình ra quyết định
của Đảng Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.
Nói như William Duiker, trong cuốn Hồ Chí Minh (2000), vai trò
của ông Hồ ngày càng bị hạn chế ở tư cách “một nhà ngoại
giao kỳ cựu và cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng thời
làm tròn hình ảnh người cha tinh thần của nhân dân và linh hồn
của cuộc cách mạng.” Uy tín cùng mối quan hệ rộng rãi – chẳng
hạn, ông Hồ có quan hệ hữu hảo với Mao Trạch Đông – khiến
nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng Lao Động Việt Nam, dù muốn hay
không, cũng không thể loại hẳn ông ra khỏi tiến trình chính
trị và ngoại giao.
Dù vậy, tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào
miền Nam năm 1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong đảng chủ
yếu chỉ còn mang tính lễ nghi.
Một trong những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp,
cũng bị cô lập sau này. Đối với dư luận quốc tế đương thời,
Võ Nguyên Giáp là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí
Minh, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều
người trong và ngoài Việt Nam thừa nhận ông là kiến trúc sư
tạo nên thắng lợi lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội
miền Bắc, vị đại tướng có uy tín lớn.
Sau việc ký kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người
khác ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam, trong khi ông Giáp
thuộc nhóm chủ trương kiềm chế và thận trọng.
Ông Giáp, giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương “chung sống hòa
bình” mà Liên Xô đưa ra lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng
phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi
nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Thái độ này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho ông
Lê Duẩn. Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt được ảnh
hưởng của ông Giáp trong bộ máy lãnh đạo của đảng. Việc cô
lập tướng Giáp – cùng nhiều đảng viên cao cấp khác – đóng vai
trò quan trọng cho việc tìm hiểu ông Lê Duẩn vì nó cho thấy
người anh hùng trên chiến trường chưa hẳn là người chiến thắng trên
chính trường.
Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an
Independent Vietnamese State”, trình bày lần đầu ở hội nghị quốc
tế về Việt Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin nhận xét:
“Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt
đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh
của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh
đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn
tất các mục tiêu cách mạng.”
“Ký ức về Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê
Duẩn tin rằng để cách mạng thành công, ông phải loại bỏ hết
những ai không tin vào chiến thắng bằng mọi giá.”
Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng.”
Tranh cãi tư tưởng
Hồi ký “Tử tù tự xử lí” của Trần Thư, người bị dính vào
vụ được quen gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, mô tả không
khí lúc bấy giờ là “tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền
Bắc” và “nếu có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua
hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói ra.”
Mâu thuẫn giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích
đạt đỉnh cao ở Hội nghị TƯ 9 năm 1963 và sau đó, tăng tốc với
đợt bắt giữ nhiều người ở Hà Nội vào năm 1967.
Tháng Giêng 1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội và
ra một tuyên bố chung phản ánh quan điểm của Liên Xô và ca ngợi
chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.”
Nhưng sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm tạm gọi là
“thân Liên Xô” và “thân Trung Quốc” trong đảng Lao Động căng thẳng
hơn. Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm cho tuyên bố
chung của Novotny và bị thay bằng ông Xuân Thủy.
Sử dụng tư liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong
bài nói về “chủ nghĩa xét lại” ở Bắc Việt, đăng trong tạp
chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán
Đông Đức ở Hà Nội năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ
Ngoại giao, Thông tấn xã…đã được giao cho các cán bộ “theo sát
đường lối Trung Quốc.”
Đây là các biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch
Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ, đến Hà Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm
đưa Hà Nội đến gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung gọi “chủ
nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho
phong trào cộng sản quốc tế.
Tư liệu giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan
điểm gần Liên Xô như Đông Đức, Hungary và Tiệp Khắc, trong năm
1963, đã báo cáo rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản ánh
quan điểm “thân Trung Quốc.”
Sứ quán Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận “các nhân tố thân
Liên Xô” trong đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ
thống.
Đến tháng Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ
chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong đó, tác giả
nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại”
và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.
Phía Đông Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức
Thọ là “một sự tấn công trực diện nhắm đến các đồng chí chia
sẻ quan điểm thân Liên Xô,” và là một bước lớn trong sự chuẩn
bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.
Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn
ra cuối năm 1963 trong bối cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết
chết tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu hỏi
có nhân cơ hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam
hay không. Đồng thời, cuộc cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc
trên trường quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong
tình cảnh khó xử, vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu
thống nhất đất nước, họ sẽ phải dựa vào hai đồng minh này.
Tại Hội nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và
Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội
nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh
bằng vũ lực ở miền Nam.
Sau Hội nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê
phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua
hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên
Xô, dưới thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ
trích).
Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng”
của ông Lê Đức Thọ, được đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa
nhận rằng một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã
ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát
viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương
Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản
đối nhóm của ông Lê Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.
Ông Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp
học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội
nghị TƯ 9.
Sứ quán Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp
học này, theo đó, các học viên phải hiểu sâu sắc sự khác
biệt giữa “chủ nghĩa Mác – Lê chân chính” và “chủ nghĩa xét
lại.”
Nhà nghiên cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn
này “không chỉ để đối phó các quan điểm bất đồng trong đảng,
mà còn là công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của
người ở miền Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang.”
Những tranh cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp tục trong giai đoạn 1967-68.
Ban đầu, vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô,
nhóm của ông Lê Duẩn thận trọng không đưa ra các tuyên bố công
khai phản ánh thái độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự
thảo nghị quyết của Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn
lên án trực tiếp Khrushchev, nhưng do yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn
này được bỏ đi.
Tuy nhiên, Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
năm 1964, quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị
đánh bom năm 1965 – những diễn biến này đã đưa Hà Nội và Moscow
gần nhau hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy
đủ tự tin để theo đuổi chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại
một cách công khai và gay gắt hơn.
Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie
Quinn-Judge công bố trên tạp chí Journal of Cold War History tháng
11-2005, ước lượng trong sự biến 1967-68, khoảng 30 nhân vật cao cấp
bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí
luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền hình được đào tạo ở
Moscow. Một trong những người bị bắt đầu tiên là Hoàng Minh
Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, bị bắt tháng 7-1967
và bị tống giam.
Cần nói rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra
quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam mấy chục năm qua.
Riêng trong vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được
mang ra xét xử. Cho đến thập niên 1990, một số người còn sống
và gia đình người đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện
xin phục hồi danh dự. Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, “cho
đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra
quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ.”
Có nhiều cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.
Tài liệu có tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch
và chống đối” do Đảng Cộng sản phổ biến năm 1994, cáo buộc ông
Hoàng Minh Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng
là đã nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định
gửi ra ngoại quốc, đồng thời họ bị cho là thu thập tài liệu để
tiến tới một chương trình hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.
Trong khi đó, nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên
nhân của “vụ án chống Đảng” là vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ uy tín của ông Võ Nguyên
Giáp. Chia sẻ phân tích này, Judith Stowe, trong bài “Revisionism
in Vietnam” (1995) nói ông Võ Nguyên Giáp “là đối tượng chính
của chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại.”
Pierre Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm “do quá nguy
hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến
đội ngũ ủng hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và
trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính
phủ.”
Sophie Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể
hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không đơn thuần mang tính
cá nhân, trong nội bộ đảng.
Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân tộc
(trong khuôn khổ liên minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ kĩ
thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng của quần chúng và sức
mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm
rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi
nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức.”
IV. MỘT DI SẢN GÂY TRANH CÃI
Sau kết quả của điều gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”,
cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung
ương Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê Duẩn.
Những người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt
và trở thành một phần quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.
Các đồng minh
Sự trợ giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ
trong suốt tiến trình thâu tóm quyền lực là vô cùng quan trọng.
Tham gia cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua
nhiều năm trong tù. Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền
Nam và làm phó cho ông Duẩn trong suốt giai đoạn xung đột giữa
Việt Minh và Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một ảnh
hưởng sâu sắc trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư,
ông Lê Đức Thọ được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một
vị trí mà theo William Duiker, được nhanh chóng “biến thành bộ
máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên.”
Pierre Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn “không thể củng cố uy
quyền một cách hiệu quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ
của ông Lê Đức Thọ; sự trung thành và trợ giúp của người này
tỏ ra cần thiết để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội.”
Một người đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại
tướng Nguyễn Chí Thanh. Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc
chỉ có hai đại tướng bốn sao là ông Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc phòng
kiêm Tổng tư lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị).
Một số chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự
cạnh tranh và khác biệt trong tư tưởng quân sự giữa hai vị
tướng này.
Trong một bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở
miền Nam là một cuộc chiến kéo dài và rằng chiến lược quân
sự có thể mất nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói ông không
tin vào “các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều
này có lợi cho chiến lược của kẻ thù.”
Tướng Thanh ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở
tạp chí Học Tập, tướng Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở
miền Nam là con đường đúng dẫn đến thắng lợi và nói thêm rằng
lập luận của những người chỉ trích là “không logich.”
Một trong những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh
trở thành đồng minh gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng
quan điểm rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở miền Nam phụ
thuộc vào quân sự.
Gần đây hơn, trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người
gốc miền Nam trong cuộc chiến mang tựa đề “Why the South Won the
American War in Vietnam,” Robert Brigham ghi nhận tướng Giáp “từ lâu
đã chỉ trích tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và ông công khai
bày tỏ nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược tấn công của
tướng Thanh…Ông Võ Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và
thực tiễn trong cuộc chiến chống Mỹ. Một số người nói điều
này rốt cuộc khiến ông đánh mất uy quyền chính trị.”
Ông Lê Duẩn hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể
tạo ra chỉ trích và chống đối. Vì thế, nói như lời của chuyên
gia Pierre Asselin, “bằng cách đề bạt và tạo điều kiện cho sự
nghiệp của tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong
việc tạo nên một thần tượng mới trong quân đội.”
Mặc dù đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967,
nhưng quan điểm của ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng
lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, tiếp tục
giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết
thúc năm 1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy
được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Bằng cách giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh
và tướng Giáp, và đề bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn
đã tạo ra một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm tin và nguyên tắc
lãnh đạo của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.
Thời hậu chiến
Cuối năm 1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Duẩn tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm
14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh
Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn
Linh, Võ Chí Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố
Hữu, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười.
Nói về những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David
Elliott, trong quyển sách được đánh giá cao The Vietnamese War
(2003), nhận xét những thành viên cách mạng còn sống đến phút
cuối cuộc chiến “thường là những người cứng rắn, giáo điều
và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc
nào cũng là những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường
phát triển.”
“Họ đã từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh
hùng. Nhưng họ cũng đã học những thói quen để sống còn mà
giờ đây kiềm chế sự phát triển của một hệ thống cởi mở hơn
thời hậu chiến…Quan trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách
mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi
thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành cớ
cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi
thường quy tắc pháp trị tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng
có thể biện minh cho phương pháp.”
Pierre Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều
người khi cho rằng “dưới thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực
nào xảy ra ở Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất.”
Tháng Bảy năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ
Sáu, ông Lê Duẩn qua đời. Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ
gần hơn với Bắc Kinh – do ông Lê Duẩn sau này đã trở thành biểu
tượng của sự không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc –
và sau đó, với các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.
Cũng từ 1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng
Bí thư, và chính sách Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của
thời kì lãnh đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.
Ở đây, những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể
được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin
qua đời, hơn là giống quá trình perestroika đang diễn ra khi đó
dưới thời Gorbachev.
Một tác giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi
Stalin qua đời và Khrushchev lên kế nhiệm: “Đó là giai đoạn xôn
xao, có phản ứng sẵn sàng hơn trước các sức ép cả có thật
lẫn được mong chờ, một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới
rộng sự tham gia chính trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan
trọng tự nhiên của nó, cũng là chất xúc tác cho các sức ép
và khuynh hướng vốn từ lâu tồn tại bên trong xã hội nhưng đã
không có cơ hội được bày tỏ và nhận diện.” Những diễn biến ở
Việt Nam sau khi ông Lê Duẩn qua đời gần với những gì đã xảy
ra sau cái chết của Stalin hơn là thời Gorbachev.
Giai đoạn nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống như thời
Khrushchev, cũng chấm dứt đột ngột để Đảng có thể bổ nhiệm
một lãnh đạo khác ít “cấp tiến” hơn, thận trọng hơn.
Có thể đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông Lê Duẩn?
Với cương vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần
được thừa nhận trong những quyết sách của Đảng Cộng sản trong
cuộc chiến Việt Nam.
Mặc dù miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung
Quốc, các nghiên cứu gần đây – như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari
Olsen – cho thấy Hà Nội duy trì sự tự chủ trong cách tiến
hành chiến tranh chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời
kì, cả Bắc Kinh, Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi
ngờ lẫn nhau. Dưới thời ông Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác
với Liên Xô và Trung Quốc để đạt mục tiêu, nhưng không phải là
con rối trong tay hai cường quốc.
Các tài liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca
ngợi vẹn toàn cho ông. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ
chính thống ấy còn là những sự tế nhị khác.
Cuối những năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh – nguyên
thư ký riêng của ông Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.
Tập sách này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách
hoàn toàn ca ngợi ông Lê Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì
giọng văn quá ca ngợi này, cuốn sách – vô tình hay cố ý – đã
khơi lại những tình cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý,
tác giả nói một mục đích khi viết sách là để chống lại hành
động “làm lu mờ bôi nhọ hình ảnh của Lê Duẩn.”
Nếu quả thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng “sau khi Lê Duẩn
qua đời, những người lãnh đạo đất nước, những người trước đó đã ca ngợi
Lê Duẩn, không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đã cố ý hay vô
tình để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô
hơn,” thì là vì sao?
Trong giai đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu
khắp mọi nơi. Vì thế, như chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự
nghi ngờ của ông Lê Duẩn lớn đến mức ông “dựa vào chỉ một vài
cá nhân trong việc tìm lời khuyên và chuyên môn.” Có lẽ không
phải ngẫu nhiên mà từ 1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc –
Trung – Nam) đã được dùng khi xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà
nước ở Việt Nam. Những bất mãn về sự tập trung quyền lực
trong tay vài người đã là một trong các nguyên nhân dẫn tới
việc phân bổ quyền lực rộng hơn sau 1986.
Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu “Lê Duẩn and the
Break with China” (2001), nhận xét ông Lê Duẩn “là lãnh đạo có
quyền lực lớn thứ hai ở Việt Nam trong thế kỷ 20.” Quyền lực
ấy đã được sử dụng thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì
nghiên cứu nào trong tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời
đầy đủ.
Nguồn: BBC News
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét