Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

CHIẾN TRANH VIỆT NAM NHÌN TỪ 2 NGƯỜI LÍNH NAM, BẮC

Chiến tranh Việt  Nam chấm dứt đã 34 năm. Có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu chính trị, nhà báo đã đặt nhiều tên cho cuộc chiến Việt Nam. Có người cho đó là cuộc chiến ý thức hệ; kẻ khác gọi là cuộc chiến ủy nhiệm; lại có dư luận đặt tên cuộc chiến Việt Nam là nội chiến, nồi da xáo thịt. Thật ra tất cả những tên gọi đều đúng. Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến ý thức hệ, ủy nhiệm, nội chiến. Gọi tên thế nào thì gọi chứ thực chất cuộc chiến là người Việt hai miền đánh nhau, giết nhau bằng những vũ khí hiện đại nhất. Sự căm thù nhau là cũng do ý thức hệ gây ra, bên nào cũng cho mình đang nắm lẽ phải, chính nghĩa. Bài viết này trình bày 2 bài thơ của hai người lính thi sĩ của hai miền Nam, Bắc nói lên cảm nghĩ của họ khi phải ra trận giết người anh em cùng chung máu đỏ da vàng. Đó là thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn của miền Nam và thi sĩ Lưu quang Vũ của miền Bắc. Hơn xa tất cả những nhà chính trị lãnh đạo của hai miền, hai người lính đã thấy được sự dã man và vô lý cùng cực của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Máu người Việt đổ ra một cách oan uổng, đau dớn cho một trận banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản trong đó người Việt Nam không nắm phần chủ động mà chỉ làm thân phận tay sai, chiến đấu hung hãn, tàn bạo cho phe phái của mình. Chính nghĩa dân tộc được cả hai bên đề cao với hy vong mang lại lẽ phải cho phe mình nhưng kết quả là cả triệu người Việt cả hai phe chết oan uổng cho bọn đầu nậu ngoại bang. Nước Việt Nam tan hoang, nhà Việt Nam tan đổ, người Việt nhìn nhau với sự hận thù tưởng như không bao giờ có thể nguôi ngoai.
Sau thế chiến thứ 2, Mỹ và thế giới các nước Cộng sản sống trong không khí chiến tranh lạnh. Mỹ không ký vào Hiệp định Geneve năm 1954 là muốn có tư thế danh chính ngôn thuận để nhảy vào miền Nam Việt Nam làm tiền đồn ngăn làn sóng đỏ. Chuyện đầu tiên Mỹ làm là xúi dục Thủ tướng Ngô đình Diệm “phản  chủ” là vua Bảo Đại, qua cái trò hề “ trưng cầu dân ý” do Mỹ đạo diễn từ đầu đến cuối. Ai cũng biết Ngô đình Diệm phải sang Pháp quỳ dưới chân vua Bảo Đại để nhận chức thủ tướng do vua Bảo Đại ban cho.  Mỹ viện trợ và tô bồi cho chính quyền Ngô đình Diệm thành một tiền đồn chống cộng theo ý Mỹ muốn. Người ta chưa quên câu nói của Tổng thống Ngô đình Diệm tỏ bày ý nguyện trung thành với Mỹ trên mặt trận chống làn sóng đỏ xâm lăng như sau: “Biên giới của thế giới tự do kéo dài từ Alaska đến vĩ tuyến 17”.
Ngô đình Diệm được Mỹ dựng lên và chống Cộng theo yêu cầu của Mỹ để giữ vững miền Nam trước sự xâm lăng của miền Bắc. Nhưng rồi Ngô đình Diệm phạm nhiều khuyết điểm làm cho chuyện chống Cộng thiếu phần kết quả và những giây phút cuối tính chuyện bắt tay với miền Bắc để hóa giải áp lực của Mỹ  nên cuối cùng bị các tướng lãnh đứng  lên lật đổ với sự nhúng tay của Mỹ vào năm 1963. Sau Ngô đình Diệm, Mỹ đưa Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ lên lãnh đạo miền Nam để tiếp tục công cuộc chống Cộng theo chủ trương của Mỹ cho đến ngày tan hàng 30 tháng 4 năm 1975.
Phải thấy rõ nguyên ủy sâu xa của lý do Mỹ nhảy vào Việt Nam chống cộng là tạo dựng cho miền Nam một con đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Mỹ đổ viện trợ và xương máu của cả lính Mỹ vì quyền lợi  chiến lược của nước Mỹ chứ không vì lo bảo vệ tư do cho nhân dân Miền Nam. Trong thời kỳ này Mỹ theo đuổi chủ thuyết  Domino, tìm mọi cách để dùng miền Nam Việt Nam ngăn làn sóng đỏ Cộng sản, vì nếu miền Nam sụp đổ thì những nước lân cận như  Lào, Kampuchia, Thái Lan sẽ đổ nhào theo như nhưng quân cờ Domino và như thế là làm tổn hại đến chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nhưng rồi sau Hiệp Định Paris 1973, Mỹ không cần miền Nam nữa vì đã bắt tay được với Trung Cọng nên quyết định bỏ rơi một cách tàn nhẫn thẳng tay. Trong những ngày miền Nam hấp hối trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Ford xin viện trợ quân sự khẩn cấp 300 triệu để cứu miền Nam khỏi sụp đổ. Quốc hội Mỹ thẳng tay bác bỏ vì lúc ấy Mỹ không cần đến miền Nam Việt Nam nữa nên Mỹ quyết định phủi tay bỏ rơi miền Nam sau những năm đổ bao nhiêu nhân lực, vật lực và cả máu lính Mỹ chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc.
Người dân miền Nam thất vọng vì chuyện bị Mỹ bỏ rơi đã đành, thế mà ở miền Băc có một thi sĩ tỏ bày sự chê trách chuyện Mỹ phủi tay bỏ chạy để cho Cộng sản miền Bắc nhuộm đỏ cả miền Nam. Người thi sĩ đó là Nguyễn chí Thiện, dù ở miền Bắc bị bưng bít mọi thông tin, ông vẫn nhìn ra chuyện cuốn cờ bỏ chạy ô nhục của người Mỹ.
KHI  MỸ CHẠY
Khi  Mỹ  chạy bỏ miền Nam cho Cộng sản
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than
Giữa tù lao, bệnh hoạn cơ hàn
Thơ vẫn bắn và thừa dư sức đạn !
Vì  thơ  biết  một  ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn
Không giành cho thế lực yêu gian
Tuyệt vọng  dẫu lan tràn
Hy vọng dẫu tiêu tan
Dân nước dẫu đêm dài ai oán
Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván
Âm thầm, thâm tím, kiên  gan
Biến trái tim thành “chiếu  yêu kính”giúp nhân gian
Nhận rõ nguyên hình Cộng sản
Tất cả suy  tàn, sức thơ vô hạn
Thắng không gian và  thắng cả thời gian
Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han !
(1975)
Mỹ không chống Cộng cũng không thân Cộng, Mỹ lúc nào cũng theo chủ nghĩa “duy lợi”, có nghĩa theo cái lợi mà làm, bất chấp tình nghĩa, liêm sỉ. Trong chiến tranh với Việt Cộng, Mỹ luôn trình bày Việt Cộng là hiện thân của những gì độc ác , xấu xa nhất. Ngày nay Mỹ giung giăng giung giẻ làm ăn buôn bán vui vẻ với Việt Cộng vì chuyện này có lợi cho Mỹ.  Cộng sản vẫn tiếp tục đàn áp bách hại tôn giáo và Mỹ vẫn không đưa Cộng sản vào danh sách CPC dành cho những quốc gia đàn áp tôn giáo là chuyện dễ hiểu thôi. Mỹ đang có những mối quan hệ kinh tế quân sự tốt đẹp với Cộng sản Việt Nam thì những chuyện  vi phạm nhân quyền của Cộng sản Việt Nam là chuyện nhỏ nhặt Mỹ không muốn để ý tới và có biện pháp chế tài trừng trị. Khi thương thì quả ấu cũng  tròn mà !. Những người Việt quốc gia nên nhớ đến điều này để đừng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào người bạn Mỹ trên con đường quang phục quê hương. Đừng bao giờ mơ tưởng đến chuyện Mỹ bật “đèn xanh, đèn đỏ” khai thông đường về lại quê hương. Trong 21 năm tồn tại của miền Nam (1954- 1975) Mỹ hỗ trợ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng hung hãn, điên cuồng cũng chỉ để giải quyết  nhu cầu chiến lược toàn cầu của Mỹ mà thôi. Người lính miền Nam được Mỹ huấn luyện căm thù sâu sắc để chiến đấu tiêu diệt bọn giặc Cộng miền Bắc xâm lăng miền Nam.  Điều này cũng đúng với phe miền Bắc là người lính miền Bắc được Đảng tuyên truyền nhồi sọ phải coi Mỹ là kẻ thù xâm lược và người lính miền Nam là tay sai của Mỹ và là kẻ thù không đội trời chung  phải tiêu diệt bằng mọi giá.
Hồ chí Minh khi tìm đến Quốc tế thứ bavà thế  giới các nước vô sản để xin vũ khí và viện trợ phục vụ cho chuyện đánh Mỹ, đánh Pháp hầu mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Các nước đàn anh Cộng sản như Nga, Tàu viện trợ vũ khí cho Hồ chí Minh đánh Pháp và sau này là đánh Mỹ không với mục đích là mong muốn cho Hồ chí Minh giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam mà với mục đích là trang bị cho miền Bắc phương tiện để chống lại đế quốc theo phương hướng vô sản phải chống lại tư sản đế quốc để làm suy yếu phe tư bản đế quốc trên toàn cầu. Hồ chí Minh chỉ là một tên lính đánh thuê của chủ nghĩa Cộng sản không hơn  không kém. Trong dịp xuân 1963, Hồ chí Minh có gửi hai cành đào tặng Tổng thống Ngô đình Diệm kèm theo lá thư mong mỏi hai miền sẽ phát triển theo chiều hướng chính trị riêng của từng miền. Đó là ước mong chung sống hòa bình với miền Nam của Hồ chí Minh. Khi chuyện này lộ ra, Quốc tế Cộng sản cho đàn em tước hết quyền lực của Hồ chí Minh ngay vì chuyện làm này đi ngược với đường lối làm suy yếu và tiêu diệt đế quốc tư bản đứng đầu là Mỹ của Quốc tế Cộng sản. Ông Cao xuân Vỹ, vốn là thủ lãnh Thanh niên Cộng Hòa dưới chế độ Ngô đình Diệm mới đây (năm 2009) đã lên đài truyền hình SET (57.4) để xác nhận chuyện Hồ chí Minh gửi cành đào cho Ngô đình Diệm xuân năm 1963 trong chương trình tìm hiểu lịch sử của cô Kim Nhung. Hai miền Nam Bắc phải đánh nhau theo sự điều động của hai thế lực Tư bản và Cộng sản đứng đằng sau hổ trợ. Hai miền Nam Bắc không có quyền nói chuyện sống chung  hòa bình,thân ái với nhau. Ngô đình Diệm bị giết và Hồ chí Minh bị thất sủng khi tính chuyện hòa hợp hòa giải với nhau đã cho thấy cái gọng kềm của hai thế lực quốc tế đứng đằng sau hai ông cương quyết và tàn nhẫn như thế nào. Những tên cai thầu chính trị  quốc tế gian ác này muốn người dân, người lính hai miền phải căm thù nhau, phải giết nhau bằng những phương tiện dã man nhất để thỏa mãn cho nhu cầu chính trị quốc tế của chúng. Cho nên không có chuyện chính nghĩa thuộc về phe nào trong chuyện người Việt giết nhau cả mà anh em cùng dòng máu đỏ da vàng hăng say giết nhau theo sự thúc dục bắt buộc của ngoại bang vì ván cờ chính trị chiến lược của chúng. Thật đau lòng và chua xót cho dân tộc Việt Nam, một dân tộc chưa bao giờ có đủ điều kiện để làm chủ lấy đất nước mình mà luôn chịu sự lệ thuộc và chi phối của nhưng thế lực quốc tế gian ác và xấu xa nhất trên đời.
Bút ký của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn. Nguồn: hoangloc.vnweblogs.com
Không phải tới thời kỳ 1954- 1975 nước Việt Nam mới có nội chiến. Trước đó hàng trăm năm đã có tranh chấp Trịnh – Nguyễn và sau đó là cuộc nội chiến của Nguyễn Ánh và phe Tây Sơn ( 1771- 1802). Ngay trong phe Tây Sơn thì hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cũng kình chống nhau rồi. Nếu trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, máu của người Việt Nam đổ ra khi chống ngoại xâm là một sự hy sinh đẹp đẽ và cao quý bao nhiêu thì trong những thời kỳ  nội chiến, máu người Việt đổ ra là một sự hoang phí và đáng nguyền rủa bấy nhiêu. Máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến dĩ nhiên không phải để giữ gìn, bảo vệ giang sơn gấm vóc mà để tranh giành  ngôi báu cho dòng họ cá nhân. Những dòng họ cá nhân này không bao giờ biết đặt quyền lợi của dân tộc tổ quốc lên trên dòng họ của mình.  Riêng về giai đoạn nội chiến 1954- 1975 thì cuộc nội chiến này đã nhuốm màu ý thức hệ chứ không còn chuyện tranh giành ngôi báu cho gia đình riêng tư như những cuộc nội chiến trong quá khứ. Dù sao, máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến đấu thế kỷ 20 này cũng phung phí và đau lòng vì chuyện “gà nhà bôi mặt đá nhau, giết nhau” một cách tận tình không thương tiếc. Lãnh tụ của cả hai miền đều không đủ sự tỉnh thức để nhìn thấy thân phận tay sai cho các thế lực quốc tế của mình, mà chỉ hăng say, ngu xuẩn, mù quáng theo đuổi con đường thúc đẩy người Việt hai miền chém giết lẫn nhau. Dĩ nhiên chuyện anh em chém giết được hai chế độ đối nghịch của hai miền  tô vẽ đẹp đẽ như một chuyện làm cao cả, cúu nước cứu dân, giải phóng , độc lập,  tự do.
Và khi bàn cờ chiến tranh  đã sắp xếp xong thì người lính miền Bắc Lưu quang Vũ theo lệnh Đảng vào chiến trường miền Nam để bắn giết người lính miền Nam mà chế độ miền Bắc nhục mạ gọi là “lính ngụy”. Và người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn cũng được lệnh ra chiến trường để nả đạn vào người lính miền Bắc bị miền Nam gọi là “quân Cộng sản xâm lăng Bắc việt.” Giống như nhà văn Phan nhật  Nam, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn có người cha phục vụ cho phía bên kia. Đây là chuyện oan trái xảy ra trong một số gia đình người Việt bị cuộc chiến phân chia thành hai phe đối nghịch nhau. Nhà văn Võ Phiến và Nhật Tiến ở miền Nam đều có em là người cầm bút trong chế độ Cộng sản. Thơ Nguyễn bắc Sơn thường có giọng điệu ngang tàng, bất cần đời, khinh bạc. Trong bài thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” được trích dẫn dưới đây, ông đã nói lên nếp sống ăn chơi không nề nếp của ông dù ông đang ở trong quân đội. Đặc biệt là ông nói lên cái tâm trạng khi ra trận phải bắn đối phương vì đứng trong tư thế bất khả kháng “ không bắn người thì người bắn mình.” Ông biết người lính đối phương từ miền Bắc cũng là người Việt máu đỏ da vàng như ông. Ông bắn mà lòng không thù hận, oán thù. Có lẽ trong tâm tư ông dâng lên niềm chua xót khi ông là người Việt mà phải bắn một người Việt vì cuộc chiến oan nghiệt đã phân chia hai miền thành kẻ thù không đội trời chung của nhau. Ông đánh giá chiến tranh này cũng chỉ là một trò chơi chứ không phải là một cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa hay giải phóng dân tộc như guồng máy chiến tranh chính trị của hai miền thường rêu rao, tuyên truyền. Cái nhìn của ông về cuộc chiến Việt Nam được đánh giá là tỉnh  táo và trung thực. Những nhận xét của ông về chuyện chém  giết nói chung là nhân bản và hiểu biết . Một người lính như ông cũng đã nhìn thấy bản chất phi lý và chết chóc lãng nhách của cuộc chiến Việt Nam mà những kẻ lãnh đạo hai miền chưa chắc đã có được. Ông thực sự là một người có trí tuệ và lòng thương bao la đến đồng bào ruột thịt của mình.
CHIẾN  TRANH  VIỆT  NAM  VÀ  TÔI
Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy  tựa  gốc  cây  hãy  ngắm  mây  trời
Hãy  tưởng   tượng  mình  đang  đi picnic
Kẻ thù  ta ơi các ngài  du kích
Hãy  tránh xa ra  đừng  chơi  bắn  nheo
Hãy  tránh  xa  ra  ta xin xí điều
Lúc này đây  ta  không  thèm  đánh  giặc
Thèm  uống chai  bia  thèm  châm  điếu  thuốc
Thèm  ngọt  ngào  giọng  hát  em  chim  xanh
Kẻ thù  ta  ơi  những  đứa  xăm mình
Ăn  muối  đá mà hăng  say chiến  đấu
Ta vốn  hiền  khô  ta là  lính  cậu
Đi  hành  quân rượu  đế  vẫn mang theo
Mang trong  đầu  những  ý nghĩ  trong veo
Xem cuộc  chiến  như   tai  trời ách  nước
Ta  bắn  trúng  ngươi  vì  ngươi  bạc phước
Vì căn  phần  ngươi  xui  khiến  đó thôi
Chiến  tranh  này  cũng  chỉ  một  trò  chơi
Suy  nghĩ  làm  gì  lao  tâm  khổ  trí
Lũ  chúng   ta sống  một  đời vô  vị
Nên  chọn  rừng  sâu  núi  cả đánh  nhau
Mượn  trời  đất  làm  nơi  đốt  hỏa  châu
Những cột  khói  giả rồng  thiêng  uốn khúc
Mang  bom  đạn  chơi  trò pháo  tết
Và  máu  xương  làm  phân  bón  rừng  hoang.
NGUYỄN BẮC SƠN (1972)
Từ  đầu những năm của thập niên 1960, Miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam, được mệnh danh là cuộc chiến “chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai.”  Đảng và nhà nước đã tô vẽ cuộc chiến tranh xâm lăng bằng những lời lẽ tuyên truyền hào hùng, đẹp dẽ với mục đích làm phấn chấn tinh thần bộ đội trẻ lên đường.
Cộng sản Việt Nam viện dẫn đến lịch sử chống ngoại xâm dài 4000 năm (40 thế kỷ) để khêu gợi tinh thần yêu nước vốn lúc nào cũng tiềm tàng trong con người Việt Nam.  Những câu thơ sau có tác dụng khuyến khích  mạnh mẽ  tinh thần thanh niên thiếu nữ lên đường ra trận

Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây có Bác Hồ
(Trích trong tập thơ “Theo chân Bác” xuất bản năm 1970 của Tố Hữu)
Tố Hữu, ngọn cờ đầu của nền thi ca xã hội chủ nghĩa, còn có những vần thơ lạc quan, phấn  khởi cho chuyện gửi quân vào Nam như sau:

Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Tố Hữu viết mấy câu thơ sau vào tháng 1 năm 1966, vẽ ra hình ảnh đẹp của những cô gái chống chiến tranh phá hoại của Mỹ
Ôi  những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng
(Xuân Sớm)
Bài hát nổi tiếng “Trường sơn đông, Trường sơn tây” do nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ từ bài thơ của Phạm tiến Duật sáng tác năm 1969 cũng tô hồng, vẽ vời lên cái tâm trạng phơi phới, hăng say của những thanh niên, thiếu nữ miền Bắc ra trận:
…Đường ra  trận mùa  này đẹp  lắm
Trường sơn đông nhớ Trường sơn tây
Từ nơi em đưa sang bên nơi anh
Những binh đoàn nối nhau ra trận tuyến
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường sơn nối tây Trường sơn.
Nhưng có một người bộ đội trẻ không hăng say nhập cuộc chuyện vào Nam chiến đấu mà lòng anh luôn nặng trĩu ưu tư về chiến tranh. Người bộ đội trẻ đó là nhà thơ Lưu quang Vũ, sinh năm1948. Anh đã bộc lộ sự bi quan buồn nản về cuộc chiến  mà anh là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu. Nên nhớ những lời thơ này anh viết dể bộc bạch tâm sự và không được nhà nước Cộng sản xuất bản thời bấy giờ vì nó không có lợi cho cuộc chiến đấu. Lưu quang Vũ mỉa mai, dè bĩu gọi những thanh niên nối nhau ra trận tuyến là “Những đứa trẻ buồn ướt lạnh”. Có thể coi những lời thơ này thuộc loại “phản chiến” không thể in vào thời chiến tranh còn khốc liệt . Lưu quang Vũ viết những lời thơ thống thiết này vì  không  thể không viết chứ không có  hy vọng được xuất bản.  Chúng chỉ mới xuất bản gần đây sau khi cuộc chiến đã chấm dứt mấy mươi năm
Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều

Rách tan cả những làn sương đẹp phủ
…Những đứa trẻ buồn ướt lạnh
Lòng chỉ muốn yêu thương
Mà cứ phải suốt đời căm giận
…Giết xong quân giặc
Chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm
Chỉ nỗi buồn trĩu nặng
Dâng như đá trên mồ
Đã có sẳn trong lòng những ưu tư buồn phiền về cuộc chiến trước khi lên đường, nên khi vào chiến trường chĩa súng bắn vào quân thù mà thực chất là những đồng bào cùng máu đỏ, da vàng, Lưu quang Vũ càng trăn trở, suy nghĩ nhiều hơn về cuộc chiến vô nghĩa lý này. Cũng giống như người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn, Lưu quang Vũ thực sự đau lòng, bức xúc khi nhìn xác những người lính miền Nam mà ông quen gọi là lính Ngụy. Ông nói lên cái thế “chẳng đặng đừng” của người lính ngoài mặt trận là phải bắn vào đối phương dù không có một chút mảy may thù hận:
Xác Ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy
Những đôi mắt bệch màu hoa dại
Những gương mặt trẻ măng xanh tái
Những bàn tay đen đủi chai dầy
Các anh ơi, đừng trách chúng tôi
Các bà mẹ, tha thứ cho chúng tôi
Chúng tôi chẳng thể làm khác được
Quả đồi cháy như một phần quả đất
Bao đời người ta đã giết nhau
Với các anh tôi oán hận gì đâu

Nhưng còn có cách nào khác được
Những  lãnh tụ ở hai miền thường hân hoan loan tin chiến thắng bằng những con số địch quân  gục ngã  trên trận địa có khi nào băn khoăn ưu tư về những người lính ngã gục trên chiến trường, có bao giờ có cảm giác bất nhẫn của người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn và người lính miền Bắc Lưu quang Vũ khi nhìn thấy xác lính chết trên chiến trường. Phải nhớ một viên đạn M16 hay một viên AK47 đốn gục một người lính trên trận địa là nước mắt của một người mẹ Việt Nam chảy ra vì mất con, vành khăn tang sẽ được buộc lên đầu người vợ xấu số và đàn con thơ ngại vẫn ngày đêm trông mong người lính trở về nhà sum họp với gia đình. Chinh chiến đã thực sự cướp đi mạng sống của người lính và đem tang tóc cho gia đình người thân của người lính. Khi lãnh tụ hai miền xua hai quân Nam, Bắc đánh nhau, có bao giờ họ nghĩ cuộc chiến Việt Nam chỉ là trận đấu banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản. Việt Nam chỉ là con chốt thí trên bàn cờ quốc tế. Anh em hung hãn hận thù giết nhau chỉ vì thi hành nhiệm vụ do nước ngoài giao phó. Sinh lực của cả dân tộc bị suy kiệt vì hai miền đui mù làm nghĩa vụ lính đánh thuê không hơn không kém. Thật đau lòng và tủi nhục cho con người Việt Nam. Một đất nước có 4000 năm văn hiến sao cứ sống trong u mê thù hận?
Bút kỳ của nhà thơ Lư Quan Vũ. Nguồn: ngoisao.net
Mùa hè 1972, một mùa hè đỏ lửa kinh hoàng với những trận thư hùng đẫm máu của hai quân đội Bắc, Nam.  Người lính miền Bắc Lưu quang Vũ có mặt trong mùa hè chiến trận kinh khiếp đó và ghi lại sự chết chóc, đổ vỡ tan hoang do bom đạn gây nên. Cả dân tộc biến thành một lò xay thịt vĩ đại. Mạng người Việt Nam tan tành thành mảnh vụn  trên những chiến trường, người Việt hăng say chém giết nhau để thỏa mãn cho những tính toán chiến lược của bọn ngoại bang . Lưu quang Vũ nhìn thấy dân tộc Việt Nam đang nướng xác trong một lò sát sinh vĩ đại. Ông ghi lại cảm xúc của mình như  sau:
Những siêu nhân vĩ đại
Những tư tưởng lớn lao nghe đến kinh người
Những thần tượng tiêu vong, những đứa trẻ ra đời
Bóng tối nắm tay nhau, tình yêu chưa hợp lại
Thế giới lo âu đầy xấu xa, phản bội
Ngày càng ít những điều đáng để ta tôn trọng
Nền văn minh lạ lùng của những trái bom
Những đám mây gây mưa, những mìn nổ từ trường
Dân tộc mấy mươi năm giết và bị giết
Mỗi phút sống của tôi đều có người đang  chết.
(Hồ sơ mùa hạ 1972)
Từ những ưu tư về sự chẳng đặng đừng và vô nghĩa lý chuyện bắn người lính đối  phương cùng chung máu đỏ da vàng, Lưu quang Vũ trăn trở, lo âu về thân phận đau thương của nước Việt và  tương lai của  đất nước không biết sẽ di về đâu khi tiếp tục ở  trong tình trạng nghèo đói và khốn khổ.
Nước Việt thân yêu
Nước Việt của ta
Sao người phải chịu nhiều đau đớn thế
Thân quằn quại mọi tai ương rách xé
… Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn  khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của người?
Sau 1975, nhà thơ bộ đội Lưu quang Vũ giải ngũ và chuyển sang viết kịch. Ông trở thành một kịch tác gia nổi tiếng viết những vở kịch lừng danh như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Kịch cùa ông nói lên những chuyện tiêu cực xấu xa đầy dẫy trong chế độ Cộng sản sau 1975. Bất thình lình, năm 1988 khi ông vừa tròn 40 tuổi, ông cùng bà vợ là nhà thơ Xuân Quỳnh và một  con nhỏ bị tử nạn trong một tai nạn xe cộ có nhiều bí ẩn mà người ta nghi ngờ chế độ Cộng sản dàn dựng ra để giết ông vì những vở kịch do ông viết phê phán xã hội đã có những chấn động sâu xa trong quần chúng. Thật đáng tiếc cho một tài năng thơ ca và kịch đầy hứa hẹn như Lưu quang Vũ  đã chấm dứt cuộc đời ở khi tuổi đời mới 40. Nhân dân sẽ nhớ đến Lưu quang Vũ là một người yêu  thiết tha con người và đất nước Việt Nam và mạnh dạn nói ra cảm  nghĩ của mình trên mực đen giấy trắng những tâm tư đau buồn của mình trước một quê hương đau thương và khốn khổ. Ông đã vượt ra ngoài cái nhìn  độc đoán một chiều của chế độ Cộng sản về cuộc chiến tranh  khi đối diện với những chết chóc trên chiến trường lửa đạn để có những suy tư trăn trở có nhiều tình người về con người  đau thương và đất nước Việt Nam tiêu điều trong cảnh chinh chiến điêu linh. Ông sẽ được tưởng  nhớ như một người con yêu của đất nước  Việt Nam trưởng thành trong khói lửa chiến tranh của thời ly loạn .
Một người nhạc sĩ ở miền Nam đã từng gọi cuộc chiến tranh Việt Nam là “nội chiến” trong một ca khúc của ông. Đó là Nhạc sĩ Trịnh công Sơn với bài hát “Gia tài của mẹ”. Ông đã viết trong bài hát như sau;
…Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn…
Đây là một bài hát trong “Ca khúc da vàng” của Trịnh công Sơn. Miền Nam cấm những bài hát trong ca khúc da vàng vì nó phản chiến, không có lợi cho cuộc chiến đấu chống Cộng sản của miền Nam. Nhưng miền Bắc cũng không chấp nhận cách đánh giá cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” của Trịnh công Sơn.
Sau 1975  ở Huế có mở ra cuộc hội thảo đấu tố Trịnh công Sơn trong đó có kiểm thảo, phê phán chuyện Trịnh công Sơn làm bài hát “Cho một người nằm xuống” để tưởng nhớ đến Đại tá miền Nam là Lưu kim Cương tử trận trong trận Mậu Thân 1968, vốn là một ân nhân của Trịnh công Sơn và quan điểm gọi cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” trong bài hát “Gia tài của mẹ”. Đối với Cộng sản miền Bắc, cuộc chiến tranh Việt Nam phải là cuộc chiến thần thánh chống Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, không thể nói là nội chiến được.
Cho dù có công vói Cộng sản trong chuyện vào đài phát thanh Sài gòn hát bài “Nối vòng tay lớn” vào trưa ngày 30 tháng 4 để  cổ võ cho chuyện tiến vào Sài gòn của bộ đội Cộng sản và sáng tác những “Ca khúc da vàng” làm suy yếu tinh thần chống Cộng của binh sĩ miền Nam nhưng vì phạm những khuyết điểm nói trên nên Trịnh công Sơn bị thất sủng sau 1975. Cộng sản đày Trịnh công Sơn ve à Huế đi trồng sắn trên những bãi đất có chứa mìn còn sót lại. Có chuyện kể lại cho biết có một con trâu dẵm phải mìn nổ chết banh xác trên vùng đất trồng sắn nơi Trịnh công Sơn đang lao động.
Trịnh công Sơn đã nhìn đúng thực chất cuộc chiến tranh Việt Nam là nội chiến, một cuộc chiến nồi da xáo thịt trong đó anh em huynh đệ tàn sát lẫn nhau vì sắc màu chủ nghĩa . Ai cũng nghĩ là chuyện chém giết Bắc Nam sẽ chấm dứt hoàn toàn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 vì chiến tranh đã chấm dứt. Tội nghiệp cho Trịnh công Sơn khi ông viết bài hát  mơ ngày trẻ em sẽ hát đồng dao ngoài  đường khi quê hương thống nhất. Miền Bắc thắng trận tiếp tục gieo đau thương chết chóc cho miền Nam thua trận sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng những cách trả thù độc ác và đê tiện chứ hoàn toàn không có những cảnh hòa hợp, hòa giải đẹp đẽ thương yêu như nhạc sĩ họ Trịnh đã ngây thơ mơ ước trong nhưng ca khúc da vàng của ông. Miền Bắc không tắm máu những người bại trận miền Nam trong ngày 30 tháng 4 nhưng đã tắm máu họ trong những tháng năm sau đó trong những trại tù cải  tạo khắc nghiệt.
Tiếc rằng những cảnh địa ngục trần gian do Cộng sản miền Bắc gây ra cho miền Nam sau 1975 đã không được Trịnh công Sơn ghi lại trong bất cứ bài hát nào của ông sáng tác sau 1975. Trái  lại ông còn viết những bài  ca ca ngợi thanh niên xung phong (Em ở nông trường, em ra biên giới) hay ca ngợi thủ đô Liên xô (Ánh sáng Mạc tư khoa) sau khi được Cộng sản cho đi tham quan cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản.  Đó là lý do tại sao người Việt hải ngoại tỵ nạn Cộng sản vẫn có ác cảm với Trịnh công Sơn, một người nghệ sĩ ngây thơ về chính trị và đã làm những chuyện có lợi cho Cộng sản trước và sau 1975 . Trịnh công Sơn có cái đau chân thành trước sự đổ vỡ tang thương do chiến tranh mang lại nhưng không có đủ tầm nhìn tỉnh táo và khôn ngoan để nhìn thấy thủ phạm tàn ác gây ra cuộc nội chiến oan trái và tủi nhục này.
Không bao giờ có thể nói chuyện hòa hợp hòa giải với bọn Cộng sản Việt Nam được vì chúng là bọn thú đội lốt người, không có sự tỉnh thức và tình yêu thương đồng loại. Cho nên chúng là thủ phạm gây ra sự chết chóc oán thù giữa những người Việt trong chiến  tranh cũng như sau chiến tranh. Một sự hòa hợp hòa giải thật sự giữa hai miền Nam Bắc sẽ có khi chế độ Cộng sản sụp đổ.
Làm sao nói chuyện tha thứ, hòa giải với bọn người độc ác Cộng sản khi cách đây không lâu chúng liên lạc với chính phủ Nam Dương yêu cầu đập phá bức tượng mà thuyền nhân dựng lên  ở trại tỵ nạn Galang để tưởng nhớ chuyện vượt biển?  Tư trong những trại cải tạo sau 1975  có những câu thơ  đưa ra ngoài  của người lính  miền Nam bại trận đang sống cảnh “cá chậu chim lồng’ nói lên sự uất ức của kiếp tù đày dưới chế độ Cộng sản sau 1975 : “Bao năm chinh chiến ta gần gũi. Giờ đã thanh bình lại biệt ly.” Trong thời chinh chiến thế mà vợ chồng vẫn có cơ hội sống chung gần gũi nhau. Sau biến cố đổi đời 30 tháng 4 năm 1975 người quân nhân miền Nam phải vào tù để hứng chịu những đòn thù độc ác dã man của Cộng sản và phải xa lìa, cách biệt vợ con. Một số không may  rũ xác trong tù và vĩnh viễn không còn ngày trở về đoàn tụ với gia đình vợ con.
Nói chung, Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ đã nhìn thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa diễn ra trên quê hương Việt Nam trong đó người Việt tận tình giết người Việt vì chủ nghĩa đã khoác tấm áo ý thức hệ lên hai miền. Máu người Việt Nam đổ xuống, làng  xóm Việt Nam nát tan vì bom đạn do lãnh tụ hai miền không ý thức được vai trò tay sai của mình, suốt ngày tìm đủ trăm phương ngàn kế và những phương tiện cùng vũ khí quân sự giết hại anh em đồng bào ruột thịt của mình mà cứ coi đó là chính nghĩa tất thắng. Thật là đau buồn và tủi hổ cho những người mang dòng máu Việt Nam mà không ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước mình, chỉ biết đánh dấm giết hại đồng bào theo chiến lược toàn cầu của ngoại bang.
Máu của người Việt đổ ra trong chiến tranh chống ngoại xâm  đẹp đẽ và xứng dáng bao nhiêu thì máu người Việt đổ ra vì nội chiến nồi da xáo thịt oan uổng và đau đớn bấy nhiêu. Hy vọng người Việt từ nay sẽ có sự tỉnh thức để anh em một nhà từ nay không còn chém giết nhau một cách ngu xuẩn và u mê nữa. Cầu mong mẹ Việt Nam sẽ phù hộ cho các con của mẹ có được sự tỉnh thức đó từ nay. Ai  là người dân Việt cũng đều nên  có nhận thức và lòng yêu thương về con người và đất nước Việt Nam như hai người lính Nam, Bắc Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ.
Xin kết thúc bài viết bằng những lời thơ của Hòa thượng Quảng Độ, một vị cao tăng mấy mươi năm qua đã hết lòng tranh đấu cho đất nước và con người Việt Nam. Những dòng thơ truyền cảm của thầy sẽ là những dòng nước  Cam  lồ thiêng liêng tưới mát những hận thù, mất mát của một thời kỳ mất mát và đau thương do sự vô minh, thù hận  của bọn tay sai ngoại bang  gây ra cho đất nước và con người Việt Nam.
TRỜI  Đà SÁNG
Vào  một  buổi  chiều mưa
Trời nhà tù  buồn thảm
Như ngày ba mươi tháng tư
Năm  bảy  lăm lịch sử  qua  rồi
Bên  cửa sắt xà  lim tăm tối
Tôi đứng  nhìn  những  giọt  mưa  rơi
Từ  mái  nhà  đổ  xuống
Lênh  láng  chan   hòa
Trông  như  những  dòng  nước mắt
Của  muôn vạn  người  dân  vô tội
Đã   chảy  ra
Khi  trải  qua  một cuộc  đổi  đời
Gió  rít  từng  cơn
Mưa tuôn  càng mạnh
Lòng trống  lạnh  bồi  hồi
Tôi  nhìn  quanh  tôi
Bốn  bức  tường  dày  đặc
Bóng  tối  phủ  đầy
Rồi  đưa  mắt  nhìn  ra  phía  chân  trời
Tôi  tìm  trong tưởng  tượng
Một  nơ i tru ù ẩn  sáng  tươi
Nhưng  hoàn  toàn  mờ  mịt
Cũng  như   xà lim tăm  tối  của  tôi
Miền Nam ôi !
Tôi  thầm  gọi
Đây là  Miền Nam trong căn  phòng  giam  chật hẹp  âm u
Ngoài kia la Miền Nam trong một nhà tù rộng lớn
Còn  có  nơi nào yên  ổn
Xin chỉ cho tôi lẩn  trốn
Hỡi  Miền Nam  thương  mến  của  tôi ơi !
Đêm  xuống  rồi và mưa đã  ngừng  rơi
Sau  hồi kiểng  hiệu vang lên
Toàn  khu nhà tù  chìm vào yên  lặng
Yên lặng như một nấm  mồ hoang  vắng
Giữa  miền cát  trắng bao la
Và  nằm trong căn nhà mồ
Tôi không thấy gì nữa  cả
Trừ  những  bóng ma
(vai  mang khẩu súng AK)
Thỉnh  thoảng  chập chờn  qua gang  cửa  gió
Đêm khuya đã đưa tôi vào giấc ngủ
Một giấc  ngủ  thật ngon
Thời gian  lặng  lẽ
Trôi theo định luật vô thường
Và mơ màng
Tôi nghe đâu  đây  tiếng  chim hót  véo  von
Tôi choàng  dậy
Ô kìa !
Thì ra trời đã  sáng
Từ  phương  Đông
Vầng thái  dương hiện lên chói  rạng
Mở đầu  một ngày  rực  rỡ ánh  hào  quang
(Nhà xuất bản Quê mẹ- Pháp)
Ánh hào quang rực rỡ phát ra từ những tia nắng chói lọi buổi sớm mai mà Hòa thượng   Quảng Độ nhìn thấy sau một đêm tăm tối trong nhà tù chính là tương lai tươi sáng của một nước Việt Nam giàu mạnh, độc lập , hạnh phúc sau bao nhiêu năm hận thù đen tối, giết chóc bạo tàn . Mong sao ngày ấy sẽ tới với bao nhiêu rộn rã vui mừng của người dân Việt trước viễn  ảnh một nước Việt Nam thương yêu, no ấm, huy hoàng.

© Trần viết Đại Hưng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét