1* Mở bài
Mỗi năm, ngày 30
tháng tư gợi lại vết thương đau buồn và mất mát của người Việt hải
ngoại, người Việt mất nước, người Việt tỵ nạn, người Việt chạy trốn chế
độ độc tài Cộng Sản.
2* Chiến dịch “Gió lốc” (Operation Frequent Wind)
2.1. Chiến dịch Frequent Wind
Chiến dịch Gió lốc
(Operation Frequent Wind) là một cuộc di tản bằng trực thăng của Hoa Kỳ
và của Việt Nam Cộng Hòa, diễn ra từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Có 50,493 người,
trong đó có 2,548 trẻ mồ côi được di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất. Các
phi công đã bay tổng cộng 1,054 giờ, với 682 chuyến bay trong chiến
dịch. Đã có hơn 7,000 người được di tản bằng trực thăng tại nhiều địa
điểm khác nhau ở Sài Gòn.
Chiến dịch có 4 phương án:
1. Phương án 1. Di tản bằng phi cơ dân sự tại phi trường Tân Sơn Nhất
2. Phương án 2. Di tản bằng phi cơ quân sự
3. Phương án 3. Di tản bằng tàu thuyền từ cảng Sài Gòn
4. Phương án 4. Di tản bằng trực thăng, bóc người đưa đến các chiến hạm ngoài khơi.
2. Phương án 2. Di tản bằng phi cơ quân sự
3. Phương án 3. Di tản bằng tàu thuyền từ cảng Sài Gòn
4. Phương án 4. Di tản bằng trực thăng, bóc người đưa đến các chiến hạm ngoài khơi.
Ngày 28-4-1975,
phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và bị 5 phi cơ A-37 ném bom, nên di
tản bằng phi cơ cánh cố định chấm dứt, và phương án Operation Frequent
Wind, di tản bằng trực thăng bắt đầu.
2.2. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là một chiến
dịch được chuẩn bị trước rất tỉ mỉ. Cả một hạm đội gồm 50 chiến hạm được
huy động từ nhiều tháng trước ngày 30-4-1975.
Đầu tháng 3 năm
1975, khu trục hạm USS Kirk được lịnh nhổ neo từ căn cứ San Diego, để đi
hộ tống hàng không mẫu hạm USS Hancock. Hàng không mẫu hạm Hancock được
lịnh cặp bến Hawaii, để đưa những chiến đấu cơ lên bờ và thay vào đó
bằng những trực thăng vận tải của TQLC/HK, rồi trực chỉ đến Biển Đông.
Chiếc USS Kirk bắt
đầu vào cuộc, với Chiến dịch Eagle Pull để di tản 300 người Mỹ rời khỏi
Phnom Penh. Campuchia thất thủ ngày 17-4-1975. Sau đó, chiếc USS Kirk
xuôi xuống phía nam, hướng về Singapore để cùng với khu trục hạm USS
Cook hộ tống hàng không mẫu hạm Midway, thả neo chờ tham gia chiến dịch
Frequent Wind.
2.3. Kế hoạch bí mật, không chỉ cứu những con tàu
Chiến dịch
Frequent Wind do ông Richard L. Armitage phụ trách. Ông nguyên là một sĩ
quan HQ/HK, lúc đó là đặc phái viên của Bộ QP/HK, thực hiện nhiệm vụ
lập kế hoạch di tản những chiến hạm của HQ/VNCH, cụ thể là giải cứu
những chiến hạm và kỹ thuật công nghệ được trang bị trên những chiến hạm
đó. Nếu không giải cứu được thì phá hủy, để không bị lọt vào tay CSBV
làm chiến lợi phẩm. Nhiệm vụ chính của ông Armitage là cứu những con
tàu, không để lọt vào tay VC.
Khu trục hạm USS
Kirk cùng thủy thủ đoàn 200 người, được lịnh đến đảo Côn Sơn, là nơi
được chọn để tập trung tàu bè và người di tản tại đó.
Một vài tuần lễ
trước ngày 30-4-1975, ông Armitage đã có mặt tại văn phòng của người bạn
thân là đại tá Đỗ Kiểm, Tư lịnh phó HQ/VNCH. Hai người lập kế hoạch
giải cứu những chiến hạm của HQ/VNCH.
Đại tá Kiểm cho
ông Armitage biết rằng, muốn đưa những con tàu rời VN, thì phải cần thủy
thủ đoàn, nhưng thủy thủ VN sẽ không đi, nếu gia đình của họ không được
đi theo. Kế hoạch cứu thoát những con tàu đưa đến việc di tản người
lánh nạn Cộng Sản. Ông Armitage không báo cáo với thượng cấp về việc
nầy, vì lo ngại chính quyền Mỹ có thể không giải cứu họ.
Cả hai ông, đại tá Kiểm và Armitage không ước lượng được con số người di tản là bao nhiêu.
2.4. Chiến hạm USS Kirk bắt đầu tiếp nhân trực thăng di tản.
Khu trục hạm USS Kirk là mục tiêu cho trực thăng đáp xuống.
Từ sáng sớm ngày
29-4-1975, USS Kirk loan báo, có một sân đáp dành cho trực thăng trên
boong, nhưng suốt buổi sáng không có trực thăng nảo đến cả. Mãi đến xế
chiều, một trực thăng UH-1 của KQ/VNCH dẫn theo 16 chiếc UH-1, 1 chiếc
CH-47 Chinook khổng lồ với 2 chong chóng và 1 chiếc vũ trang Cobra, cùng
với 200 người di tản đã có mặt trên chiếc Kirk. Trong số UH-1, có 1
chiếc của Air America, là hảng hàng không của CIA.
2.5. Hỗn loạn ở Côn Sơn
Ngày 1-5-1975,
chiếc Kirk đã có mặt ở Côn Sơn từ hừng sáng. Đã có 30 tàu HQ/VNCH, hàng
chục tàu đánh cá và tàu chở hang, đầy khẳm những người tỵ nạn ở khu tập
trung nầy.
Ông Kent Chipman,
một người thợ máy, lúc đó 21 tuổi, thuật lại: “Những con tàu nhồi nhét
đầy người, tôi không thể xem bên dưới lòng tàu, nhưng trên boong tàu thì
chật cứng, người san sát nhau”.
Một tài liệu lịch sử cho rằng có khoảng 30,000 người.
Một số tàu không
còn chạy được, nên họ cùng lôi kéo nhau đi. Một chiếc quá khẳm nên đang
chìm. Nhiều người trên tàu nhảy xuống biển. Một trung úy HQ/VNCH nổ lực
giúp hành khách rời khỏi chiếc tàu đang chìm. Hành khách được chuyển
sang tàu kế bên bằng một tấm ván gỗ hẹp. Cảnh hỗn loạn xảy ra.
Một người đàn ông ra tay đánh ngã một phụ nữ phía trước anh ta, cô bị rơi xuống biển, và được cứu vớt.
“Người trung úy VN
không hề lưỡng lự, anh ta đến ngay sau anh chàng đó, rút súng bắn một
phát vào đầu giết chết anh ta, rồi đá xác qua một bên, tiếp tục cứu
người. Cú bắn thật kinh hoàng, nhưng ngăn chặn được hỗn loạn”. Ông
Stephen Burwinkel, người y tá trên chiếc Kirk thuật lại như thế.
2.6. Các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Hòa tự giải giới
Đến thứ ba, ngày 6-5-1975, toàn thể hạm đội di tản của HQ/VNCH gần đến cảng Subic (Philippines).
Lịnh ban ra: “Tất
cả những chiến hạm phải tự giải giới hoàn toàn”. Tàu chiến Mỹ cho những
Cano cặp vào những chiếc tàu nầy để hốt hết súng ống, đạn dược.
Trên đường đi, thủy thủ và y tá Mỹ cung cấp nước uống, thức ăn, thuốc men và khám bịnh cho người tỵ nạn.
Trên đại dương, ở
hải phận quốc tế, chiếc tàu nào đăng ký ở quốc gia nào, mang cờ nước
nào, thì được xem như là lãnh thổ của quốc gia đó. Vì thế, một đứa trẻ
được sinh ra trên tàu, thì có quyền xin được mang quốc tịch của quốc gia
của chiếc tàu.
Qua 6 ngày trên
biển, trong 30,000 người tỵ nạn, đã có 3 người thiệt mạng và được thủy
táng, vì Philippines không cho phép mang xác chết lên nước họ.
Khi đoàn tàu đến
gần Philippines thì thuyền trưởng chiếc Kirk, nhận được một tin không
tốt lành gì. Đó là chính phủ của Tổng thống Ferdinand Marcos e ngại rằng
sự hiện diện của tàu HQ/VNCH có thể gây khó khăn về ngoại giao của họ,
đối với chính quyền CSVN. Hạm trưởng Jacobs của chiếc Kirk kể lại:
“Chính phủ Philippines không cho phép chúng tôi vào cảng Subic và đề
nghị những con tàu nên trở về Việt Nam”.
Đại tá Đỗ Kiểm và
ông Armitage đưa ra một giải pháp buộc Tổng thống Ferdinand Marcos phải
chấp nhận. Đó là cờ VNCH được hạ xuống và trương cờ Mỹ lên, chứng tỏ
những con tàu nầy là của Hoa Kỳ.
Mà thật, những con
tàu nầy là của HK. Cơ sở lý luận là, trong chiến tranh, tàu HK được
trao cho VNCH như là một khoản cho mượn để chống Cộng Sản, nhưng bây giờ
chiến tranh kết thúc, HK thu hồi những chiếc tàu nầy trở lại. Thế là
một cuộc tìm kiếm khó khăn, làm sao có đủ 30 lá cờ Mỹ trong lúc ở trên
mặt biển.
Buổi lễ hạ cờ chính thức.
Hàng chục ngàn
người VN trên các con tàu bắt đầu hát quốc ca. Cờ VNCH hạ xuống trong
những tiếng bật khóc. Khóc. Và khóc… Chưa bao giờ có một buổi lễ hạ cờ
đầy xúc động đến như thế.
Lãnh thổ VNCH cuối
cùng đã mất thật sự. Cái đau gậm nhấm khôn nguôi của người Việt miền
Nam là mất nước. Những người còn lương tri thì không nên quên nổi nhục
đó.
3* Chiến dịch di tản trẻ sơ sinh (Operation Babylift)
3.1. Chiến dịch
Tháng 4 năm 1975,
miền Nam đang sụp đổ dưới sự tấn công của Cộng Sản Bắc Việt, Tổng thống
Gerald Ford lý lịnh cho thực hiện chiến dịch di tản để cứu trẻ “mồ côi”,
cho rằng, có thể VC sẽ không nương tay, vì một số là con lai Mỹ.
Hoàn cảnh buộc phải di tản trẻ thơ
Những trẻ mang tên
là trẻ “mồ côi”, thật ra là đã có cha hoặc mẹ còng sống, nhưng vì hoàn
cảnh nào đó, họ đã từ bỏ các em, đưa vào cô nhi viện, mang tên trẻ mồ
côi.
Một số những người
chăm sóc các em là những người ngoại quốc vào VN làm công tác thiện
nguyện cho các nhà thờ và các tổ chức từ thiện nước ngoài. Họ phải rời
VN. Trong hoàn cảnh vô củng hỗn độn của những ngày gần cuối tháng 4 năm
1975, hàng chục ngàn gia đình VN đang chờ di tản. Trẻ mồ côi cũng không
thể bị bỏ rơi trong hoàn cảnh hỗn độn đó được. Những người thiện nguyện
HK đã nổ lực vận động, đưa các em ra khỏi VN để tiếp tục được chăm sóc
và nuôi dưỡng. Các em đã bị cha mẹ bỏ một lần rồi, không thể bị bỏ lần
thứ hai, cho nên việc di tản trẻ mồ côi là đầy lòng nhân đạo.
Một điển hình là
bà Betty Tisdale, đã nổ lực chạy đôn chạy đáo để hoàn thành thủ tục làm
hồ sơ xuất cảnh cho 219 trẻ sơ sinh rời VN. Bà Tisdale thuật lại: “Tôi
chạy đến bịnh viện Nhi đồng, xin 225 mẫu giấy khai sanh, rồi điền vào
ngày giờ và nơi sanh một cách nhanh chóng. Tôi hoàn toàn không biết
những em bé nầy là con của ai, sinh ra lúc nào, nơi nào. Những ngón tay
của tôi cứ viết đại để tạo ra những bản khai sanh. Tôi tức tốc đến gặp
đại sứ Graham Martin xin phương tiện di tản cho các em. Đại sứ bằng lòng
với điều kiện các thủ tục giấy tờ phải được chính phủ VN chấp thuận.”
Ông Edward Daly,
chủ tịch World Aiways đang có mặt ở VN, trong lúc đó, thì con gái của
ông là một thiện nguyện viên đang ở Colorado, đánh điện xin ông giúp đở
cho trẻ mồ côi được ra đi.
Chiến dịch
Babylift được thực hiện trong 3 tuần lễ, từ ngày 2-4-1975 đến ngày
26-4-1975. Tổng cộng có 26 chuyến bay, đã đưa 2,548 trẻ mồ côi đến Hoa
Kỳ. Sau đó, các em được các gia đình Mỹ nhận làm con nuôi.
3.2. Bắt đầu bằng tang tóc
Chiếc Lockheed
Martin C-5A Galaxy, được xem là phi cơ vận tải lớn nhất thế giới, đã
từng chở xe tăng và cầu quân sự nặng 70 tấn, từ căn cứ không quân Clark
(Philippines) được phái đến Sài Gòn, trong nhiệm vụ di tản trẻ thơ, bắt
đầu từ ngày 4-4-1975.
Ngày 4-4-1975, lúc
4:15 chiều, sau khi 328 trẻ em và người lớn, trong đó có nhân viên sứ
quán Mỹ và nhiều nhân viên của các đơn vị Mỹ, được đưa lên máy bay.
Chiếc C-5 bắt đầu rời đường băng.
Khoảng 12 phút
sau, cách phi trường Tân Sơn Nhất 64km, thì một biến cố xảy ra. Cửa sau,
nằm dưới bụng phi cơ, là nơi đưa hành lý lên tàu, đã bung ra và bị thổi
bay mất. Hành khách bị xô ngã, nhiều người bị thương. Một nhân viên phi
hành ngồi gần cửa bị hút bay ra khỏi phi cơ. Những người còn lại bất
tĩnh do thiếu dưỡng khí. Hai phi công chính và phụ không còn điều khiển
được phi cơ, nên quyết định trở lại Sài Gòn.
C-5 không phải là
phi cơ chở hành khách, cho nên những mặt nạ tiếp dưỡng khí không được
thiết kế cho trẻ em, vì thế, các em được bế lên cao để gắn mặt nạ dưỡng
khí vào. Linda Adam, một y tá quân y kể lại như thế.
Khi còn cách Sài
Gòn 5km, phi cơ mất độ cao, lao mình ầm ầm xuống cánh đồng lúa ngập
nước, đụng phải con đê, gãy làm 4 khúc, và bình xăng phát cháy.
Trên cánh đồng lúa thuộc khu vực Cát Lái, cảnh tang tóc với những xác người nằm vương vãi trên bùn đất.
153 người thiệt mạng, trong đó có:
98 trẻ em. 34 nhân viên bộ QP/HK. 5 dân sự. 11 nhân viên KQ/HK. Và những y tá của nhiều quốc gia.
175 người sống sót.
Có nhiều giả
thuyết về lý do xảy ra tai nạn: cho rằng bị phá hoại do những người thân
Cộng muốn phá kế hoạch di tản trẻ thơ, do lỗi thiết kế của công ty
Lockheed, và cho rằng phi cơ không được bảo trì chu đáo.
Người chị của một y
tá thiệt mạng, đại diện cho các nạn nhân, đâm đơn kiện tập thể, đòi
công ty Lockheed bồi thường 200 triệu USD. Việc điều tra được tiến hành,
và cho mãi tới năm 1990 vẫn chưa có kết quả.
4* Những di sản của chiến dịch Babylift
4.1. Không có hồ sơ lý lịch cá nhân
Ngày 5-4-1976, tờ
Time cho biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lý lịch cá nhân,
đó là những con người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh
ngày và nơi sinh, quốc tịch…cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
Cục di trú và nhập tịch cho biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.
4.2. Bi kịch gia đình
Nhiều trường hợp đau lòng khó xử xảy ra.
- Bà Hà Thị Võ
Người từng đưa 3
đứa con đi theo chương trình Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi
nhận ra đứa con út 3 tuổi tại một gia đình nhận con nuôi, bà đòi con
lại. Cậu bé không nhận bà, khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của
bà.
- Bà Doãn Thị Hoàng An
Bà An ở bang
Montana, nhận mình là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng
Johnny và Bonnie Nelson nhận làm con nuôi từ chương trình Babylift.
Khi ra toà, cậu bé
Ben không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ triều
mến và thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, tòa phán quyết cậu Ben thuộc
về bà mẹ Việt Nam.
Thế là vợ chồng Nelson tiếp tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.
5* Trở về cố hương
5.1. Trẻ mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Mỹ
Cô Kimberly Mitchell có chuyến về Việt Nam trong vai một trung tá Mỹ.
Gần 40 năm sau khi
được một trung sĩ Mỹ, thuộc KQ/HK và vợ ông, nhận làm con nuôi năm
1972, cô Mitchell được biết là một trẻ sơ sinh mang số 899, bị bỏ rơi
tại cô nhi viện Thánh Tâm, Đà Nẳng.
Trung tá Mitchell
hiện là Phó giám đốc văn phòng Trợ giúp Quân nhân và Thân nhân tại Bộ
QP/HK, cho biết: “Tôi muốn cố gắng nối kết lại với quá khứ còn chưa biết
của mình. Trung tá Mitchell đã thăm Sài Gòn và Đà Nẳng trong chuyến đi
một tuần lễ về VN.
Chuyến thăm tại
trại mồ côi Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động
nhất của chuyến đi. Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary, là người đã
từng làm việc trong thời gian tiếp nhận em bé số 899 vào cô nhi viện.
“Sơ Mary cho biết, cái tên mà họ đặt cho tôi là Trần Thị Ngọc Bích,
nghĩa là viên ngọc quý. Đây là chuyến thăm của một đời người, nghĩa là
một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa để quay trở
lại”, Mitchell thuật lại.
5.2. Phim Ngưòi con gái Đà Nẳng (The daughter from Da Nang)
Phim tài liệu The
daughter from Da Nang được đề nghị lãnh giải Oscar về loại phim tài
liệu. Phim đã chiếm nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film
Festival) Hoa Kỳ năm 2002: Sundane Film Festival, San Francisco
International, Ojai Film Festival, Durango, Colorado, Texas, New Jersey
International, Nashville, Cleveland.
Nội dung phim
Vào những ngày sau
cùng của cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đã bỏ ra 2 triệu USD để
mở chiến dịch Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ, Canada,
Pháp và Úc để làm con nuôi.
Cuộc di tản bắt đầu bằng một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.
Cuốn phim xoay chung quanh cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi tìm mẹ ruột sau 22 năm.
Heidi Bub sinh năm 1968 tại Đà Nẳng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.
Chồng bà Kim là Đỗ Hữu Vinh, từ năm 1964, đã bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, nhảy núi theo Việt Cộng chống Mỹ.
Bà Kim vào làm công nhân trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị Hiệp (Heidi)
Khi VC đánh vào Đà Nẳng, vì sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6 tuổi.
Khi sang Mỹ, Mai
Thị HIệp được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một
trường đại học, nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.
Bà Ann Neville
sinh sống ở bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Klu Klax
Klan. Bà che dấu nguồn gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo
vệ con.
Về vật chất, Heidi
không thiếu thốn gì cả, nhưng tình cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn
cỗi, thiếu hẳn những bộc lộ tình thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc.
Cuối cùng, bà đuổi Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lý do.
Lúc 6 tuổi, Heidi
tưởng rằng mình không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc
cảm, có lẻ mình quá tệ hại nên đã bị mất mẹ hai lần.
Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu tìm mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức tìm lại đứa con.
Năm 1991, mẹ con bắt liên lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.
Năm 1997, ký giả
Trần Tương Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương
Như giúp Heidi trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.
Tại phi trường Đà
Nẳng, Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo
là những tổ chức, như những bữa cơm đại gia đình, viếng thăm hàng xóm,
đi chợ…
Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm thấy khó chịu, bị sốc vì khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của mình bị xâm phạm.
Bà Kim muốn ngủ
chung giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối
với Heidi thì đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi
không có thì giờ để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối
với mình.
Heidi thật sự bị sốc khi các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lãnh cho gia đình sang Mỹ.
Heidi nghĩ rằng cô bị bóc lột và bị lợi dụng, nên đã đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch trình ấn định.
Khi về đến Mỹ, cô
nhận được thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo
lãnh. Cô cảm thấy không sốt sắng để trả lời những búc thơ đó.
6* Trí thức Việt kiều giữa hai lằn đạn
6.1. Quê hương là chùm khế ngọt
Người tỵ nạn Cộng
Sản đã nhận đất nước đã mở rộng vòng tay cứu giúp và cưu mang mình là
quê hương thứ hai. Quê hương nầy, cụ thể là Hoa Kỳ, đã trợ giúp tài
chánh bước đầu để xây dựng cuộc sống mới. Con cái người tỵ nạn được có
nền giáo dục rất tiến bộ, và nhất là đất nước nầy đã cho ngưòi tỵ nạn
một đời sống bình đẳng với người bản xứ, nhân quyền được tôn trọng.
Sống ở quê hương
thứ hai, nhiều người cho đó là nơi tạm dung, nên không bao giờ quên quê
hương mà mình được sinh ra. Quả thật đó là chùm khế ngọt. Quê hương VN
cụ thể là 84 triệu đồng bào của mình trong nước.(Không kể 3 triệu đảng
viên CSVN)
Có hai quan niệm
và hình thức phục vụ quê hương. Đó là đấu tranh đòi tự do, dân chủ và
nhân quyền cho đồng bào trong nước, và một hình thức khác là về nước,
phục vụ đảng CSVN góp phần xây dựng quê hương.
6.2. Trí thức Việt kiều bị kẹt giữa hai lằn đạn
Ngày chạy trốn chế
độ độc tài CS bằng di tản, vược biên, vượt biển, người tỵ nạn bị VC
chửi tơi bời. Tôi xin trích nguyên văn lời của tác giả Tống Phước Hiến
như sau:
Trích nguyên văn.
“Cộng Sản xem những người vượt biên, vượt biển chạy trốn chúng là bọn
phản quốc, phản động, là cặn bã, bọn ăn bám, vong bản, lười biếng…” (hết
trích)
Thế rồi Nghị Quyết 36 của đảng CSVN ra đời. Người trí thức tỵ nạn được hoan nghênh khi trở về thành Việt Kiều Yêu Nước.
Những trí thức
Việt Kiều Yêu Nước nầy lại bị một lằn đạn thứ hai, cũng không kém nặng
nề như những lời chửi bới của Việt Cộng trước kia.
Phục vụ quê hương
là không có điều kiện. Tổng thống Kennedy có nói một cây đại ý như sau,
ta không nên đòi hỏi tổ quốc phải làm gì cho ta, mà tự hỏi, ta phải làm
làm gì cho tổ quốc. Một vị trí thức về nước góp phần xây dựng quê hương,
chưa làm được gì mà xin được mua nhà ở VN. Suốt mấy năm không được đáp
ứng, bèn than phiền nầy nọ lung tung, khiến cho trí thức chân chính
trong nước xem thường ra mặt.
6.3. Câu chuyện mất quyền tỵ nạn của một Việt kiều Pháp
Bài viết của ký giả Xuân Mai trên báo áp phê số 4 tại Paris như sau
“Ông Nguyễn Văn
Tuyền, 59 tuổi đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như
sau: “Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù
không có ngày ra. Vì lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp,
vui lòng chấp thuận cho tôi được tỵ nạn chính trị, sống tạm dung trên
mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về quê cũ khi nào quê hương tôi không
còn chế độ độc tài Cộng Sản.”. Nhưng ông Tuyền đã phản bội tư cách tỵ
nạn của ông đến 7 lần từ năm 1995 đến năm 2000. (Theo tài liệu của
OFPRA=Office Francais de Protection des Réfugiés et Aptride-Cơ quan Bảo
vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc
Ngày 27-6-2000,
ông Tuyền và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ
tỵ nạn, với lý do trở về quê cũ khi còn chế độ độc tài Cộng Sản.
“Chiếu theo điều
1, khoản 2A của Hiệp Định Genève ngày 28-7-1951, chúng tôi thu hồi thẻ
tỵ nạn. Đồng thời cũng trình lên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA
không còn chịu trách nhiệm với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm,
hưởng trợ cấp xã hội theo diện người tỵ nạn chính trị”.
Được biết, từ năm 1988 đến năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tỵ nạn và quyền lợi, với con số là 22,417.
Bài viết ghi như
sau: “Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Võ Văn Sung, Mai Văn Bộ,
Trịnh Ngọc Thái đến Nguyễn Chiến Thắng đã coi người Việt Nam là thành
phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy
ông đập lưng ông. Đó là, dễ giải trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ
bị OFPRA cắt quyền tỵ nạn và trợ cấp xã hội. Sau khi cấp chiếu khán,
tòa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội vụ Pháp biết tên họ của những
người vi phạm luật tỵ nạn. Một khi mất thẻ tỵ nạn, thì mất luôn thẻ
thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm. Trường hợp đó,
muốn sống ở Pháp trên 3 năm, thì phải có Passport của chính phủ CSVN,
để trở thành công dân Việt Cộng cho đến mãn kiếp.
Cái thâm độc của VC là như thế.
Việt Cộng nhìn con
người ở bản chất. Một bản chất bị cho là “Phản động, phản quốc, cặn
bã…” thì khó gột rửa được. Nếu không có tiền gởi về hàng tỷ đô la mỗi
năm, thì cái bản chất đó vẫn tồn tại trong đầu óc của VC. Khúc ruột thừa
ngàn dậm vẫn luôn luôn là như thế.
Có những câu hỏi cho “trí thức Việt Kiều Yêu nước”:
Quý vị về phục vụ quê hương với thân phận nào đây?
- Quý vị có được đối xử bình đẳng với người dân trong nước không? Tại sao, người dân được tự do mua nhà, còn quý vị thì không.?
- Có ai được giữ
chức quản lý, như trưởng toán, trưởng phòng, trưởng ban hay giám đốc
không? Quý vị chỉ là những người thừa hành dưới quyền sai bảo của cán bộ
đảng viên Việt Cộng mà thôi.
- Quý vị có được
tự do phát biểu ý kiến riêng của mình không? Có được quyền binh vực cho
công lý, công bằng, lẻ phải, sự thật hay không? Khi thấy những cảnh bất
công, đàn áp đánh đập người yêu nước…quý vị có dám đứng về phía đồng bào
của mình không? Nếu không, thì quý vị có thể bị xem như a tòng với tội
phạm.
- Về nước phục vụ quê hương mà không dám đứng về phía công lý, lẻ phải của đồng bào mình, thì lương tâm quý vị ra sao?
Hỏi, tức là trả lời vậy.
7* Kết
Ngày 30 tháng 4 mở
ra một trang sử đau buồn của dân tộc. Trí thức Việt Kiều nên đồng tâm
hiệp lực với trí thức chân chính trong nước, để đòi lại những quyền công
dân và quyền con người mà dân tộc 84 triệu người Việt Nam xứng đáng
được hưởng ở thế kỷ 21 nầy. Đó là cách phục vụ dân tộc đúng đắn.
Trí thức trong
nước rất kiên cường, bất khuất, đã can đảm đòi tự do dân chủ cho đồng
bào của mình, thì trí thức Việt Kiều không nên “Áo gấm về làng”, phát
biểu linh tinh vô tổ chức để được nhận bằng khen hoặc xin được mua nhà…
Tấm gương của
những trí thức chân chính trong nước như: Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân
Diện, Lê Đăng Doanh, Trần Vũ Hải, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu Hảo, Lê
Hiếu Đằng trong việc đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt
Nam, cần được nên theo.
Làm người, nhất là
trí thức, thành phần ưu tú của dân tộc, phải nên có tư cách tối thiểu
để có thể ngữa mặt nhìn thiên hạ, ở trong cũng như ở ngoài nước.
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-4-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét