Hồ Chí Minh
từ Xô viết Nghệ
Tĩnh 1930
tới Cải cách Ruộng
đất 1953
Minh Võ
Trích
"Hồ Chí Minh, Nhận định và tổng
hợp",
Xuất
bản năm 2003 - Chương 46
Hai dấu ấn đậm
đà mà chủ nghĩa Cộng sản ghi lại trên
đời sống Việt Nam, đặc biệt tại
nông thôn, là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh và cuộc
Cải cách Ruộng đất.
Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh là phong trào
nổi dậy đầu thập niên 1930 chống chính
quyền đương thời lúc đảng Cộng
sản Việt Nam vừa thành lập và phát động
đấu tranh với danh nghĩa Cộng sản. Cuộc
Cải cách Ruộng đất được thực
hiện vào hai thập kỷ sau, đầu thập niên
1950, khi Cộng sản thực sự nắm quyền trên
một phần đất nước.
Cả hai biến cố
đều do đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương nhưng đều có dư luận biện
giải là Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm. Từ
giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940,
gần như các tài liệu Cộng sản Việt Nam
thường coi Xô viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự
phát nằm ngoài ý định của Hồ Chí Minh và cách
biện giải này đã ảnh hưởng tới
nhiều tác giả nghiên cứu về Việt Nam và con
người Hồ Chí Minh.
Từ thập niên 1950 trở
về sau, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh
được nhìn theo chiều hướng khác hơn không
còn được coi là một cuộc nổi dậy mang
tính tự phát nữa.
Sở dĩ có tên Xô viết
Nghệ Tĩnh vì “... khi
được tin nông dân nổi dậy ở Nghệ
Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi
tháng 11 năm đó (1930) cho Quốc tế Cộng sản
và Quốc tế Nông dân là: “Hiện
nay ở một số làng đỏ, Xô viết Nông dân
đã được thành lập”. Từ đó cái tên Xô viết Nghệ Tĩnh
được tung ra và trở thành lịch sử.” (1)
Phong trào đã được
xác định không khuôn hạn trong hai tỉnh Nghệ –
Tĩnh mà phát động trên toàn quốc. Trần Văn
Giàu so sánh với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của
Việt Nam Quốc Dân đảng như sau: “Nếu Yên Bái nổi lên ở
một vài địa phương lẻ tẻ trên chỉ
một xứ Bắc Kỳ, thì cao trào 1930-1931 phát triển
trên toàn quốc, khắp Trung, Nam, Bắc.” (2)
Hồng Hà phổ biến
nội dung báo cáo ngày 29-9-1930 của Hồ Chí Minh gửi
Đệ tam Quốc tế ghi rõ “nông dân Gia Định, Chợ Lớn và Tân An ở Nam
Kỳ cũng biểu tình ngày 12-9 (và) ngày 17 nông dân Gia
Định lại biểu tình”. (3)
Dương Trung Quốc
viết: “Phối hợp
với Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào Cách mạng Việt Nam ở các tỉnh Nam
Trung Kỳ cũng phát triển mạnh… Các cuộc
đấu tranh này đều có vũ trang và uy hiếp các
cơ quan chính quyền của địch. Tiêu biểu trong
cao trào này là cuộc biểu tình vũ trang thị uy của
3000 nông dân huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày
7-10-1930…” (4)
Sử gia Pháp Daniel Hémery ghi là
trong ít tháng từ tháng 5-1930 đến mùa hè 1931, CS đã
tổ chức 124 cuộc biểu tình bạo động
khắp nơi.
Tài liệu Lịch sử
đảng Cộng sản Việt Nam được giảng dạy tại các
trường đại học Việt Nam hiện nay
đưa ra con số gấp mười lần con số
của sử gia Hémery – “Từ
tháng 2 năm 1930 đến tháng 4 năm 1931 trong cả
nước đã có 1236 cuộc đấu tranh của công
nhân và nông dân… Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả
nước có 362 cuộc đấu tranh, 29 cuộc ở
miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở
miền Nam... Đấu
tranh của quần chúng đã bùng nổ khắp nơi,
tập trung ở các nhà máy, xí nghiệp, vùng mỏ như Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả,
Vinh – Bến Thủy, Sài Gòn, Chợ Lớn vân vân...; ở các vùng nông thôn như Gia
Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên,
Cần Thơ, Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam, Kiến An...” (5)
Phong trào được phát
động với khẩu hiệu “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc
tận rễ”, biểu hiện tính triệt để
của giai cấp đấu tranh đã dẫn đến
thảm cảnh đẫm máu tại nhiều địa
phương. Để đào tận gốc, trốc
tận rễ bốn thành phần thù địch là trí thức, phú nông, địa
chủ, kỳ hào, đấu tranh bạo động trở thành phương
tiện chủ yếu. Nông dân được tuyên
truyền kích động nổi dậy trừng trị
kẻ thù của giai cấp bằng mọi biện pháp kể
cả tàn sát và tàn sát bất phân già trẻ lớn bé. Vì, dù
là trí, phú, địa, hào thì kẻ nào cũng có gia
đình, con cháu trong khi khẩu hiệu nêu rõ phải đào tận gốc, trốc
tận rễ nên không thể nương tay.
Nhưng không chỉ riêng máu
của những thành phần trên phải đổ mà máu
của nông dân cũng chan hòa vì sự đàn áp dữ
dội của chính quyền Thực dân Pháp. Để
đối phó với cuộc bạo động ngày
12-9-1930 của nông dân phủ Hưng Nguyên, Nghệ An,
người Pháp đã đưa máy bay tới thả bom vào
giữa các đám đông sát hại 217 người. (6) Bạo động kéo dài
cho tới mùa hè 1931 và trải rộng trên nhiều
địa phương nên thảm cảnh chém giết
đã tạo một ấn tượng kinh hoàng đối
với quần chúng khắp nước. Hai tiếng
Cộng sản trở thành mối đe dọa khủng
khiếp vì là ám ảnh chết chóc từ cả hai phía, Pháp
và những người đấu tranh cách mạng.
Trong Lời kêu gọi
được thông qua vào dịp thành lập đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu tháng 2-1930 tại
Hong Kong, Hồ Chí Minh đã viết: “Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch
sử Cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp Vô sản ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo Cách mạng” (7)
Đi vào bước ngoặt
lịch sử này, Đảng đưa ra công việc
đầu tiên cho giai cấp Vô sản được
đánh giá đã trưởng thành là nổi dậy
triệt hạ 4 kẻ thù trí-phú-địa-hào.
Đảng đã theo đúng quan điểm chiến
lược Lênin chọn giai cấp bần nông làm nòng
cốt với mục tiêu cụ thể là tịch thu tài
sản ruộng đất của các thành phần thù
địch chia lại cho dân – tức giai cấp Vô sản.
Cảnh sống khó khăn và trình độ dân trí thấp
kém đã giúp các cán bộ tuyên truyền nhanh chóng lôi cuốn
được những đám đông.
Phong trào
được hưởng ứng và kết quả
những ngày đầu có vẻ thuận lợi nên lập
tức các kiểu mẫu chính quyền Xô viết
được thành lập gây hứng khởi cho nhóm lãnh
đạo khiến Hồ Chí Minh vội vã báo cáo ngay
với Đệ tam Quốc tế về việc đã có những làng đỏ
tại Việt Nam với các Xô viết Nông dân. Nhưng, hành động
đấu tranh mang tính thúc đẩy những cuộc
cướp của giết người đã gây ác cảm
trong dư luận.
Nhà báo Nguyễn Phan Long trên
tờ Đuốc Nhà Nam
trong số ra ngày 8-8-1930 đã có một bài viết về
những cuộc nổi dậy này được Trần
Văn Giàu trích lại như sau: “Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài
mấy anh đầu đảng ra không nói, còn mấy
người sau đều là đám dân ngu khờ khạo
bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt vậy, theo người ở Hốc Môn nói
với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay
là dân nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị Cộng
sản đến diễn thuyết, nói những lời
dưới đất trên trời, làm cho những
người ấy hóa ra những người biểu tình
rất hăng hái!” Trần Văn Giàu cũng trích
lại lời phát biểu của nhà báo Dương Bá
Trạc trên tờ Lục
tỉnh Tân văn: “Làm
Cộng sản là những thằng dốt, theo Cộng
sản là những đứa ngu.”
Như thế, ngay trong lần
đầu công khai xuất hiện tại Việt Nam,
Cộng sản đã không thu phục nổi nhân tâm. Đây
là lý do khiến đảng Cộng sản phải ẩn
mình dưới chiêu bài Việt Nam Độc lập
Đồng minh hội của Hồ Học Lãm và cũng là
lý do khiến một thời gian dài về sau cán bộ CS
các cấp thường xuyên coi Xô viết Nghệ Tĩnh là
phong trào tự phát.
Những luận điệu
này cho tới năm 2000 còn được nhiều tác
giả tiếp tục vận dụng để chứng
minh sở kiến của mình như Douglas Pike, William J.
Duiker… cho rằng HCM không chủ trương bạo
động nên không chịu trách nhiệm về những
thảm cảnh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Douglas Pike còn thu hẹp phong trào vào phạm vi vài huyện
của 2 tỉnh Nghệ Tĩnh để cho đó là
những biến cố địa phương nhỏ
hẹp.
Thực ra, chính Hồ Chí Minh
vẫn coi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh là một thành
tích lớn của đảng Cộng sản Việt Nam
với sự đánh giá: “Tuy
đế quốc đã dập tắt phong trào đó trong
bể máu, nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng
tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng
của nhân dân lao động Việt Nam” (8) Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, Hồ
Chí Minh xác nhận chỉ 2 tháng sau khi thành lập,
đảng Cộng sản Việt Nam đã phát
động những cuộc tranh đấu lan rộng
khắp nước kéo dài suốt 13 tháng, từ tháng 4-1930
đến tháng 5-1931 và viết: “Trong
những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam
đã lật đổ chế độ cai trị của
Pháp và phong kiến, và lập chính quyền Xô viết.” (9)
Những người như
Douglas Pike, William J. Duiker… có vẻ muốn thu hẹp cái
bể máu Xô viết Nghệ Tĩnh vào phạm vi một
địa phương và cố đẩy thần
tượng của mình ra xa bằng các màu sắc hiếu
hòa ghét bạo lực, nhưng Hồ Chí Minh lại không che
đậy nổi sự hứng khởi trước
những cuộc nổi dậy. Thêm nữa, riêng việc
Hồ Chí Minh thường xuyên báo cáo cho Đệ tam
Quốc tế ngay lúc vừa bắt đầu có các
cuộc bạo động đã đủ để không
thể bảo rằng Hồ Chí Minh không chịu trách
nhiệm về những thảm cảnh đã xẩy ra.
Trong bản báo cáo ngày 29-9-1930,
Hồ Chí Minh còn nêu rõ số người bị chết và
cho biết đã chỉ thị cho đảng viên,
đồng thời xin chỉ thị của Đệ tam
Quốc tế về những bước đi tiếp: “Hơn 200 người đã
bị Pháp giết... Chúng tôi đã chỉ thị ngay cho các
đảng viên Nam Kỳ ở trong nước cố
gắng hết sức mình thu xếp một cuộc
họp của trung ương để quyết
định mọi việc... Đề nghị cho biết
ngay chúng tôi phải làm gì và các đồng chí có thể làm gì
giúp họ.” (10)
Báo cáo này chỉ có thể giúp
Hồ Chí Minh trút trách nhiệm cho Đệ tam Quốc
tế với lập luận không thể làm trái chỉ
thị thượng cấp. Nhưng trút tội theo cách này
thì khác gì kẻ cầm dao giết người trút tội
cho kẻ trả tiền mướn. Tuy vậy, cách trút
tội này đã được vận dụng khá nhiều
vào hai thập kỷ sau, khi Cộng sản Việt Nam
tiến hành Cải cách Ruộng đất tại miền
Bắc.
Cải cách Ruộng đất là việc bắt
buộc phải làm tại các nước nặng về
nông nghiệp với nhiệm vụ phá bỏ quyền
tư hữu tiến tới hợp tác hóa nông nghiệp
để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa. Liên Xô, Trung Quốc đều thực hiện
Cải cách Ruộng đất sau khi CS giành được
chính quyền. Việt Nam cũng bước vào diễn trình
này sau khi CS kiểm soát một phần lãnh thổ và tái
xuất hiện dưới tên gọi mới Đảng
Lao động Việt Nam.
Nhưng, Cải cách Ruộng
đất không chỉ nhắm riêng về kinh tế mà
đặc biệt chú trọng về chính trị với
mục tiêu củng cố quyền lực cho Đảng.
Được hướng dẫn trực tiếp bởi
các đặc phái viên thổ
địa Trung Cộng, giới lãnh đạo Cộng
sản Việt Nam đã thuộc lòng bài học kinh
nghiệm Hoa Lục sau khi Quốc Dân đảng Trung Hoa
thất bại như sau: “… Quốc
Dân đảng là đảng vốn có thế lực
cực lớn ở Hoa Nam, bắt rễ khá sâu trong xã
hội Trung Quốc… Số người của Quốc Dân
đảng bỏ chạy sang Đài Loan hoặc ra
nước ngoài rất ít so với số dân khổng
lồ. Có một số
người chỉ trốn loanh quanh, tạm lánh rồi
trở lại quê hương. Cho nên Cải cách Ruộng
đất là biện pháp cơ bản để phát hiện
rồi triệt hạ hết mọi tổ chức
Quốc Dân đảng và vô vàn tổ chức thanh niên,
phụ nữ, xã hội, tôn giáo, từ thiện, thể
thao, nghệ thuật có dính đến Quốc Dân
đảng … Tay chân của Quốc Dân đảng hoặc
liên quan đến Quốc Dân đảng thâm nhập
rất sâu, leo lên rất cao, cần cảnh giác phát hiện
và nếu cần, giải thể hết bộ máy cũ,
tạo nên bộ máy hoàn toàn mới gồm những trung
kiên, cốt cán, phát hiện và được rèn luyện
trong cuộc đấu tranh “long trời lở đất”
này…” (11)
Kinh nghiệm nêu trên dẫn
đến ý kiến khắp các
địa bàn, cơ cấu chính quyền Cộng
sản Việt Nam khó tránh tình trạng bị phản
động mai phục và Cải cách Ruộng đất
chính là biện pháp cơ bản để phát hiện, tiêu
diệt những phần tử này – Hoàng Văn Hoan gọi
là “mở rộng thành vấn
đề chỉnh đốn tổ chức”.
Ngay sau đại hội
Đảng kỳ 2 tháng 12-1951 tại Việt Bắc,
vấn đề Cải cách Ruộng đất
được chuẩn bị và chuẩn bị khá kỹ
từ thực tế đến pháp lý. Trường Chinh
trở thành Trưởng ban Cải cách Ruộng đất
gồm Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ
Viết Thắng, Chu Văn Biên. Một số địa phương
thuộc Thanh – Nghệ – Tĩnh và Thái Nguyên được
chọn làm thí điểm phát động trong thời gian
chuẩn bị các văn kiện pháp lý.
Ngay trong thời gian mở
đầu này, một chuyện chấn động đã
xẩy ra: “Khi đội phát
động đến vùng đồn điền
Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí
điểm phát động nông dân, chủ đồn
điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng
hộ các chiến sĩ Cộng sản từ thời bí
mật, từ những năm 1937-1938… Chính các ông
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đã
được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt
động Việt Minh từ thời bí mật, đi
bộ đội giải phóng… Cố vấn Trung Quốc
nhận định bừa rằng đây là mụ
địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy
đầu. Một số nông dân chất phác ngây thơ
kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi
chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến
sĩ là con nuôi của bà. Những người này bị
cố vấn Tàu và ông Đội trưởng quê ở
Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che,
chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột
ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi,
đến bước đấu tranh trực diện
của nông dân, kể tội và luận tội về kinh
tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với
màn xử bắn”. (12)
Hoàng Quốc Việt là
người từng được bà Nguyễn Thị
Năm che chở, nuôi dưỡng đã tới báo cáo
với HCM và thuật lại: “Ông
Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không
thể mở đầu chiến dịch bằng cách
nổ súng vào một phụ nữ và lại là người
từng nuôi cán bộ Cộng sản và mẹ một chính
ủy trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại
chức”. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông
Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp
bách này! Thế nhưng không có gì động đậy theo
hướng đó cả”. (13)
Sau đó nạn nhân đã
bị đưa ra xử bắn và “khắp đồng quê miền Bắc” diễn ra “những cuộc
đấu tố kinh hoàng giai cấp “địa chủ”
(mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp
trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố
mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau… Họ
đều được biểu dương là lập
trường giai cấp vững chắc và dứt khoát, giác
ngộ giai cấp sâu sắc, là những đảng viên
trung kiên của Đảng, thấm nhuần tận
xương tủy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Mao Trạch Đông, được nêu
gương để toàn đảng học tập!…
Hơn 10 ngàn người đã bị bắn trong các tòa án
nhân dân vừa hừng hực khí thế kích động
căm thù, vừa mù quáng kỳ quặc, một chiều
theo kiểu a dua của đám đông – những cơn
động kinh của đám đông cuồng tín ít học.” (14)
Hoàng Văn Chí là người
từng đứng trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp
trước 1954 chia Cải cách Ruộng đất làm 2
đợt, đợt đầu gọi là “Giảm tô”, mỗi xã trong
khoảng 10 ngàn xã tại Bắc Việt phải chọn ra
một địa chủ để hành quyết. Như
vậy 10 ngàn chỉ là số nạn nhân của đợt
đầu. Sang đợt 2, con số phải chết
ở mỗi xã theo tiêu chuẩn đề ra tăng lên 5.
Nếu cộng cả 2 đợt ít nhất phải có 60
ngàn người bị hành quyết tại chỗ. Nhưng
theo Hoàng Văn Chí, “chính sách cô
lập nổi tiếng từng phải chịu trách
nhiệm về số người chết có lẽ 10
lần nhiều hơn số đã bị xử bởi các
“tòa án nhân dân đặc biệt””. (15)
Sắc lệnh 149-SL qui
định về chính sách ruộng đất và Sắc
lệnh 151-SL qui định về trừng trị
địa chủ do Hồ Chí Minh ký ngày 12-4-1953 là thời
gian đang tiến hành chiến dịch giảm tô mà ý
nghĩa đã được diễn tả như sau: “Nhà nước VN đã quyết
định đưa đấu tranh phản phong tiến
lên một bước mới, tiếp thu kinh nghiệm
của Trung Quốc đã sử dụng bạo lực
chính trị của quần chúng đấu tranh đòi
địa chủ phải giảm tô, giảm tức.” (16) Đây cũng là đợt
thí điểm của Cải cách Ruộng đất.
Ngày 4-12-1953 các sắc lệnh
trên được Quốc hội thông qua và Hồ Chí Minh
chính thức ban hành ngày 19-12-1953 nhân kỷ niệm Ngày Toàn
quốc Kháng chiến mở đầu cho các đợt
chính thức của Cải cách Ruộng đất trên
khắp miền Bắc.
Thực tế của việc
sử dụng bạo lực chính trị quần chúng và con
số nạn nhân tại một số địa
phương từ ngày chính thức ban hành chính sách tới
khi có quyết định sửa sai theo ghi nhận của
tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử số 267 tháng 4-1993 và nội san Cải cách Ruộng đất các số 10,11,14
xuất bản tại Hà Nội đầu năm 1956
như sau: “Ở đồng
bằng Bắc Bộ trong số 2033 xã đã có 63,111 hộ
bị qui là địa chủ nay sửa lại 31,844 không
còn là địa chủ. Con số địa chủ chỉ
có 31,269 hộ tức chiếm 2.2% trong tổng số
hộ ở nông thôn. Ở một xã như xã Trường
Vân Thanh Hóa chỉ có 11 địa chủ bị qui lên 65
tức 54 người bị tố oan, bị đấu
tố, tù đầy và kể cả bị đánh chết.
Trong số 2033 xã, số người bị qui kết là
địa chủ lên tới 14,908 người sau
đợt sửa sai chỉ còn 3,932 người tức
tố sai 10,976 người…
Trong
đấu tranh thoái tô, rất nhiều cán bộ dùng
nhục hình: treo, đánh, bắt cởi quần áo đứng
ngoài đêm rét… Đồng chí L. ở xã Đảng
Cương bắt con địa chủ ra truy tố không
được, bực quá ra lệnh cho anh em du kích trói
chặt cánh khuỷu nó lại và treo lủng lẳng lên cành
cây…
Ở xã Hồng Phong, T. bắt con
địa chủ Thị Công truy tố. Đồng chí gọi
đứa con nó mới 13 tuổi đến giải thích
để phản hóa rồi cho nó về với mẹ nó
không được.
Đồng chí T. nổi giận cho trói đứa bé
lại treo ngược lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Một
mặt bắt mẹ nó quỳ xuống, dang hai tay ra,
mỗi bên đeo một hòn đá nặng rồi đổ
nước mắm vào mũi. ĐC tưởng nhục
hình như thế là moi được tô nhưng rút cục
chẳng ăn thua gì” (17)
Theo Thành Tín tức cựu
đại tá Cộng sản Bùi Tín, Cải cách Ruộng
đất gồm đợt thí điểm và 5 đợt
tiếp nối, nhưng bắt đầu bước sang
đợt 5 vào khoảng đầu năm 1956 thì phải
ngưng, vì hậu quả có thể dẫn tới một
tình thế bi đát khó lường đoán. Nguyễn Quang
Ngọc trong Tiến trình lịch sử Việt Nam cũng cho biết Cải cách Ruộng đất
gồm 5 đợt tiến hành trong 3653 xã, đã chia
khoảng 334,100 ha ruộng đất cho khoảng 2
triệu hộ nông dân không có hoặc thiếu ruộng (18).
Một nhân chứng cũng là
nạn nhân và thoát chết, Phạm Văn Trì, người
gốc Hưng Nguyên, Nghệ An từng qua các cuộc
đấu tố trong Cải cách Ruộng đất cho
biết: “…Ở miền Bắc
có khoảng 5000 xã. Không phải xã nào cũng đấu
cả. Không phải người nào cũng đấu
cả. Ví dụ, ông Hồ Chí Minh và Trường Chinh
đưa ra một tỉ lệ một xã 1000 dân thì
phải có 50 người bị đấu tức 5%.
Cứ theo tỉ lệ mà đấu cho đủ số.
Ví dụ xã này nghèo quá không đủ số thì tìm sao
những người hống hách chút ít đôn lên cho
đủ số. Phải đúng tỉ lệ đưa ra
không có cũng phải tìm cho đủ. Miền Bắc coi
như có 5000 xã thì số đấu tố chết là 250 ngàn
người.
– Ông có
đích thân chứng kiến những vụ đấu
tố không?
– Có! Tôi
xin kể cho ông một vài việc tôi chứng kiến
tận mắt. Có một vụ đấu tố trong đó nạn
nhân bị lột hết cả quần áo ra. Người ta lấy than và
dầu hôi bôi vào những chỗ có lông trên thân mình
người đó, treo lên và đốt, cháy như
nướng trui. Đứa
con của nạn nhân mới 3 tuổi, không biết gì,
đứng nhìn thấy cha mình bị đốt
tưởng đang làm trò nên té lên cười. Có một anh nông dân đứng
gần đó thấy vậy, lấy mã tấu chặt
đầu đứa nhỏ.
Đầu nó rơi xuống đất mà miệng vẫn
còn cười.
– Trong các vụ đấu
tố đó, nghe nói có một số địa chủ và
phú nông bị chôn, chừa cái đầu lên để cho xe
cày.
Ông có chứng kiến việc đó không?
– Tôi có chứng kiến
thế này: Bắt địa chủ ăn cứt, uống
nước đái, 3, 4 thằng cầm tay kéo đứt ra,
lấy kim chích ngón tay bắt khai, treo người lên
đốt cháy như con cá lóc…” (19)
Một chứng nhân khác,
Nguyễn Đình Khuê, cũng người huyện Hưng
Nguyên, Nghệ An, từng là nạn nhân của phong trào Xô
viết Nghệ Tĩnh từ lúc 3, 4 tuổi và là nạn
nhân của Cải cách Ruộng đất vào hơn hai
thập kỷ sau đã kể lại về cách thức
chuẩn bị cho các vụ đấu tố:
– Cha con
tôi là nạn nhân. Trước khi tiến hành
việc Cải cách Ruộng đất, họ cho cán bộ
về làng, thi hành chính sách “tam cùng” với nông dân: cùng ăn, cùng ở, cùng làm.
Họ luyện tập cho nông dân có tinh thần chống
địa chủ, bắt cán bộ ngủ cùng
giường với nông dân…
– Cách
thức tố khổ địa chủ thế nào?
– Họ
bắt nông dân học tập và thường bịa ra… Anh
nông dân bịa ra và nói cho hắn xem có đủ hay chưa.
Tập luyện công phu như vậy cả năm rồi
mới bắt đầu… Tôi không hiểu tình trạng trong
làng của ông bạn tôi (tức Phạm Văn Trì) như thế
nào, nhưng trong năm đó trong làng tôi, trong xóm tôi, nông dân
họp đêm, họp tới 2, 3 giờ sáng. Học
tập xong rồi mới bắt đầu thực hành…
– Số
người bị đấu tố bị giết là bao
nhiêu?
– Số
người trong làng tôi, có mình cụ tôi. Ông cụ tôi
bị giam trên núi mấy tháng thì chết. Tôi không
được phép đi đâu hết nên không biết rõ
số người bị đấu tố chết là bao
nhiêu.” (20)
Trong Đêm Giữa Ban Ngày,
Vũ Thư Hiên kể lại:
“Tại
xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa...
người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn
tôi đi khắp làng... Ở
một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai
cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống
lửa. “Con mẹ ni là phú
nông phản động, ngoan cố lắm”, những
người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn
bà quằn quại mãi cho đến khi ngất đi
rồi mới được người ta hạ
xuống. (....)
Người
ta cắm gai vào đầu ngón tay một cô gái, có trời
biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có
tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi
lại cắm cái gai thêm một chút, làm cho cô ta rú lên vì
đau, quằn quại trong giây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị
tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên
đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng
rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng
cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình – những
đứa trẻ này chắc chắn lớn lên với trái
tim không phải của giống người...” (21)
Nhà văn nữ Dương
Thu Hương cũng không quên cảnh tượng đã
xẩy ra khi mới sáu, bảy tuổi và ghi lại trong tác
phẩm Những thiên đường mù (22) dưới hình thức
tự thuật của nhân vật trong tác phẩm:
“Bà
nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình,
đầu gục xuống, hai tay vòng trước ngực. Trước mặt hai
người là dân làng đốt đuốc ngồi.
Họ có nhiệm vụ lắng nghe những lời
đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo
địa chủ!”, họ có nhiệm vụ giơ tay lên
hô thật to: “Đả
đảo! Đả đảo!”.... Bên tay trái bà nội tôi và cô tôi, những người
khác quỳ gối chờ tới lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng hô
“Đả đảo” cất lên họ lại run bần
bật. Chỉ có cô Tâm không
hề run rẩy...
...Cậu
nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, đinh tai
nhức óc. Rồi tiếng hô uy hiếp vọng vào:
– Kiên
quyết đánh đổ địa chủ Nguyễn
Thị Tâm!
– Kiên
quyết đánh đổ!!! Cậu Chính nhìn bố tôi
hất hàm:
– Nghe rõ
chưa? Bố tôi không
trả lời. Cậu quát:
–
Đội hỏi có trả lời không?
Mặt
bố tôi tái xanh, mồ hôi vã đầy hai thái dương
nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên:
– Bẩm
thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết
phận, dù đội không ra lệnh chúng con cũng không dám
chơi trèo.
Cậu
Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy
đội cải cách là Thượng Đế, là Trời....”
Tài liệu giáo dục chính
thức Tiến trình lịch sử Việt Nam cho
biết Cải cách Ruộng đất đã giúp 2 triệu
hộ nông dân nghèo có ruộng tức liên can tới trên 2
triệu hộ. Nếu chỉ tính mỗi hộ trung bình có
4 người thì Cải cách Ruộng đất trong 3
năm liên can tới 8 triệu người và theo chỉ
thị Đảng và Nhà Nước, chỉ tiêu số
người bắt buộc phải đưa ra
đấu tố là 5% tức đã lên tới 400 ngàn
người. Con số này gần ngang với con số
ước lượng mà Tổng thống Mỹ Nixon nêu ra
là khoảng nửa triệu.
Cũng theo con số chính
thức do báo chí Cộng sản Việt Nam công bố thì
trong 14,908 nạn nhân đã có 10.976 người bị
tố oan, thậm chí bị đánh chết, tức là
số nạn nhân bị hại oan lên tới hơn 70
phần trăm.
Ngay với vấn đề
thế nào là oan, thế nào
là ưng đã cần
phải nhìn lại, trong khi ngoài số nạn nhân bị
trực tiếp đưa ra đấu tố, chính sách cô
lập còn hành hạ hàng triệu thân nhân của những
kẻ này bằng cách bao vây, xua đuổi, tước
đoạt mọi phương tiện cư trú, sinh
sống, thậm chí chặn hết mọi nguồn
tiếp tế thực phẩm để phải chết
đói rét nơi bờ bụi… Số nạn nhân này không ai
kê khai nổi và chắc chắn không thu hẹp trong giới
hạn vài ba chục ngàn như một số tác giả
ngoại quốc đã ước đoán.
Nhưng số lượng
nạn nhân bị ngược đãi và tàn sát man rợ trong
Cải cách Ruộng đất là bao nhiêu không nghiêm trọng
bằng sự tiêu diệt mọi tình cảm thiêng liêng cao
cả nơi con tim của người dân Việt Nam.
Để củng cố uy
quyền của mình, Đảng đã cố thực
hiện qua Cải cách Ruộng đất cái khẩu
hiệu “thà giết lầm
mười người còn hơn để cho một
kẻ địch sống sót” bằng cách biến
người dân thành một bầy dã thú sẵn sàng dày xéo
lên tương quan vợ chồng, cha con, mẹ con,
huyết mạch, xóm giềng… Nỗ lực này của
Đảng đã dẫn đến cái cảnh mà Dương
Thu Hương ghi lại trong một bài viết vào năm
2002: “Trong lịch sử
“bốn ngàn năm”...
triều đình Cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dậy
con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm, dậy con trai
chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bóc
lột”, dậy cho láng giềng tố cáo điêu chác,
đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau... vào những năm 53-55 (trong
CCRĐ). Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên lãng,
hẳn hiểu rõ điều đó. Khi con người
đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ
ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa
sự nhẫn tâm để làm những điều ác
gấp ngàn lần như thế với tha nhân....”
Trong Đêm giữa ban ngày,
trang 221, Vũ Thư Hiên đã ghi rõ: “Cha tôi khẳng định người chịu trách
nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải
Trường Chinh.
Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm
của ông Hồ.” Mặc
dù cả Vũ Thư Hiên lẫn thân phụ ông đều
cố nghĩ tốt cho Hồ Chí Minh, vì những liên
hệ cũ từng có.
Đầu năm 1956, khi tâm
trạng phẫn uất tràn lan ở nhiều nơi,
thậm chí đã có những cuộc nổi dậy của
dân chúng như ở Quỳnh Lưu, Ba Làng và thái độ
chống đối của nhiều phần tử từng
nhiệt tình theo đảng trong kháng chiến chống Pháp,
nhất là ảnh hưởng của cuộc khởi
nghĩa chống Cộng sản tại Hungary, Đảng
và Nhà Nước ra lệnh ngưng tiến hành đợt
5 Cải cách Ruộng đất với lý do phát hiện
nhiều khuyết điểm.
Có thể nói tới lúc này cái
biện pháp cơ bản để củng cố uy
quyền của Đảng là Cải cách Ruộng
đất đã đạt trọn mục tiêu đề ra
trong khi mô thức hợp tác hóa nông nghiệp đã
được tiến hành tại 3653 xã trong tổng
số 5000 xã tức gần khắp miền Bắc. Hơn
nữa, sửa sai không phải là từ bỏ chính sách
Cải cách Ruộng đất mà là bước tiếp
nối cần thiết để củng cố thành
quả đã thu hoạch suốt ba năm tiến hành
Cải cách Ruộng đất, vì chỉ sửa sai
những cách thức thi hành đã được thực
hiện trong quá khứ tức là chỉ cần bằng những
lời lẽ ngọt ngào tỏ ý tiếc về những
việc đã rồi. Cách thức sửa sai
được Thành Tín ghi lại như sau:
“Sau nghị quyết sửa sai, lại thành lập
những đoàn cán bộ sửa sai, công bố cả
một loạt tài liệu quy định các bước
sửa sai, phát hành rộng rãi những văn kiện có tính
pháp luật về sửa sai… Cuộc sửa sai
được tiến hành ráo riết, mỗi nơi là
chừng 4 tháng, có nơi hơn 6 tháng.
Các bước sửa sai
đi cùng với củng cố tổ chức Đảng
và Chính quyền cơ sở. Những người bị
giam giữ oan ức được trả lại tự
do, sau những buổi học thanh minh và xin lỗi theo
nội dung: Đảng không cố tình mà vô tình làm sai do không
kiểm tra cấp dưới; Đảng rất đau xót
nhận sai lầm; Đảng xin lỗi mỗi
đồng chí, đồng bào, khôi phục danh dự và
quyền lợi của các đồng chí, đồng bào.
Trong cơn khó khăn này,
Đảng mong mỗi đồng chí sát cánh cùng
Đảng sửa sai đến nơi đến chốn
mà đóng góp lớn nhất của đồng chí là thông
cảm với Đảng, cùng Đảng sửa sai và
ổn định tình hình, không gây thêm bất kỳ khó
khăn nào cho Đảng…
Còn số
người chết oan? Những gia đình này
được cán bộ cấp huyện và chủ tịch
xã đến thăm viếng, nhận lỗi và an ủi.
Giấy minh oan được mang đến tận
nơi, với những chứng nhận phục hồi
đảng tịch (nếu là đảng viên), trả
lại huân chương, bằng khen, còn được
tặng thêm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh có đóng
dấu của tỉnh…
Ngày
29-10-1956 tại sân vận động Hàng Đẫy,
đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đứng ra
nhận tội, xin lỗi, đưa ra phương án
sửa sai khẩn cấp… Tại cuộc họp lớn
này, người ta đẩy cụ Bùi Kỷ, một nhân
sĩ trong Mặt trận Tổ quốc ra đọc
lời khai mạc. Sau đó, đại
tướng Võ Nguyên Giáp lên tiếng thuyết phục. Cái lý sự để thuyết
phục là ở mặt trận, nhất là mặt trận
Điện Biên Phủ, chiến sĩ ta còn lấy thân chèn
pháo bất kể sinh mạng, hàng ngàn chiến sĩ bỏ
mình thì việc tổn thất trong Cải cách Ruộng
đất tuy là đáng tiếc nhưng cũng là đóng
góp cho Cách mạng tiến lên.
Ít lâu sau, báo Quân đội Nhân dân đưa ra trong xã
luận, chỉ rõ “chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng thêm
vĩ đại, Đảng ta càng thêm vĩ đại””.
(23)
Để tỏ ra muốn
thực sự sửa sai, Trường Chinh không còn giữ
chức Tổng Bí thư Đảng tuy nhiên
được chuyển qua làm Chủ tịch Quốc hội
và Hoàng Quốc Việt bị loại khỏi bộ chính
trị, Hồ Viết Thắng, Nguyễn Đức Tâm
bị đưa ra khỏi Ủy ban Trung ương trong
khi cán bộ CCRĐ vẫn tiếp tục là cán bộ sau
một thời gian họp hành kiểm điểm những
việc đã qua.
Sửa sai đã kết thúc
tốt đẹp vì tình hình miền Bắc hoàn toàn
thuận lợi cho việc cai trị của Đảng,
nhất là khi dẹp xong các phần tử văn nghệ
bất mãn thuộc các nhóm Nhân văn – Giai phẩm.
Tuy vậy, không phải
những lời chê trách hoàn toàn tắt lịm. Theo ghi
nhận của sử gia Pháp Gerard Tongas (24) có mặt tại Hà Nội lúc đó thì trong
thời gian Cải cách Ruộng đất, nhất là sau
các vụ đàn áp ở Ba Làng, Quỳnh Lưu và nhân dân
Budapest, giới trẻ Hà Nội hết sức xôn xao,
đã có mưu tính biểu tình chống đối. Tuy
việc không thành, nhưng sự ngưỡng mộ
đối với Hồ Chí Minh sút giảm rõ rệt vì
nhiều người cho rằng trách nhiệm lớn
nhất trong Cải cách Ruộng đất do Hồ Chí Minh
phải gánh chịu. Do đó, việc trút lỗi cho thuộc
cấp làm sai đã được bổ sung thêm bằng
một lập luận khác: Hồ Chí Minh đã bị
cả Liên Xô lẫn Trung Quốc tạo áp lực nặng
nề, bắt buộc phải Cải cách Ruộng
đất.
Những người đã
rời bỏ hàng ngũ Cộng sản như Nguyễn
Minh Cần, Bùi Tín đều chưa rũ hết ảnh
hưởng của luận điệu này, dù cả hai
đều cho rằng Hồ Chí Minh phải gánh chịu
phần lớn trách nhiệm. Về áp lực của
Staline, Thành Tín thuật lại:
“Đầu
năm 1950… theo kể, Staline trong cuộc gặp riêng ông
Hồ Chí Minh trong điện Kremlin… đi thẳng vào
vấn đề, chất vấn ông Hồ 2 điểm: vì sao giải tán đảng
Cộng sản Đông Dương? Vì sao chưa tiến
hành Cải cách Ruộng đất?
Ông Hồ
đã trình bày với Staline là việc giải tán
đảng Cộng sản Đông Dương cuối
năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế
là Đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt
giả công khai là Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác. Hai là cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp rất gay gắt nên
Cải cách Ruộng đất phải chậm lại và
đã làm cuộc vận động giảm tô, giảm
tức. Staline nghe, và,
với bản chất thô bạo vốn có, chắc
chắn đã cao giọng ra chỉ thị phải sớm
đưa đảng Cộng sản ra công khai…; chính trong
kháng chiến gay gắt lại cần làm Cải cách
Ruộng đất để huy động tinh thần và
lực lượng vật chất của nông dân vào
cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh
giai cấp và Liên minh Công nông là hai nguyên lý cơ bản
của Cách mạng Vô sản…
Ông Hồ
trở về. Thế là đảng Cộng sản Việt Nam
mở đại hội đảng lần thứ 2 vào
tháng 12-1951 ở Việt Bắc, đảng ra công khai
với tên Đảng Lao động Việt Nam… Còn Cải
cách Ruộng đất? Cần thấy rõ là ông Hồ
vẫn cố trì hoãn Cải cách Ruộng đất sau khi
ở Moscou về. Cuộc
kháng chiến rất khẩn trương, quyết
liệt. Staline ở xa…” (25)
Tháng 3-1950, Hồ Chí Minh
rời Mạc Tư Khoa trở về lo ngay việc
đưa Đảng Lao động Việt Nam ra công khai
vào tháng 12-1951 và mấy tháng sau, năm 1952, đã khởi
sự các đợt công tác thí nghiệm Cải cách
Ruộng đất thì không thể có chuyện cố tình
trì hoãn.
Nguyễn Minh Cần cũng
nêu áp lực của Staline nhưng không theo cách nhìn của
Bùi Tín mà nhìn qua hệ thống tương quan trong khối
Cộng sản đặt đảng Cộng sản
tại các nước vào thế phải tuyệt
đối vâng lệnh Đệ tam Quốc tế. Ngoài ra,
theo Nguyễn Minh Cần, chính Hồ Chí Minh cũng luôn tín phục
các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông. Nguyễn Minh
Cần kể lại trường hợp đích thân nghe rõ
lời của Hồ Chí Minh vào dịp dự hội
nghị trung ương ở chiến khu Việt Bắc.
Lúc đó Hồ Chí Minh đã nhắc đến Staline, Mao
Trạch Đông và nhấn mạnh với các đại
biểu trong hội nghị: “Các
cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên
Đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin
và Mao Trạch Đông rồi (chúng tôi được
biết hồi ấy ông vừa đi Moskva về), các
đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin
và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai
được.” (26)
Dù muốn hay không, Hồ Chí
Minh vẫn là người ký các sắc lệnh 149-SL, 151-SL
vào tháng 4-1953 và sau đó ký sắc lệnh ban hành luật
Cải cách Ruộng đất. Cũng thế, Hồ Chí
Minh đã trực tiếp bổ nhiệm Trường Chinh
và nhóm Hoàng Quốc Việt cầm đầu ban chỉ
đạo Cải cách Ruộng đất. Các qui
định về luật lệ cũng như
người thi hành đều do Hồ Chí Minh sắp
đặt và đây là những thứ đã đưa
đến cái chết tàn khốc của cả nửa
triệu người dân vô tội, đã phá hủy toàn
bộ khuôn thước tinh thần truyền thống dân
tộc.
Trước sự việc HCM
im lặng bỏ mặc cho bà Nguyễn Thị Năm
bị đàn em theo lệnh cố vấn Trung Cộng lôi ra
xử bắn, Thành Tín đã viết: “Tôi nghĩ việc này có rất nhiều ý nghĩa.
Trước hết, ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về
chuyện này; và dù không biết, là Chủ tịch
Nước, Chủ tịch Đảng, ông vẫn phải
chịu phần trách nhiệm. Huống gì ông đã biết rõ cụ thể, ông
nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế
mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách
nhiệm. Ông không can thiệp thì còn ai có thể can thiệp?
Ông đã để mặc cho nước của ông,
đảng của ông bị một số kẻ nước
ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị
trí, trách nhiệm của mình”.
(27)
Ý kiến của Thành Tín có
thể dành chung cho toàn bộ chính sách Cải cách Ruộng
đất. Dù cán bộ, đảng viên biện giải
cách nào thì Hồ Chí Minh cũng không thể chối bỏ
trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, cần xét lại ý
nghĩ cho rằng Hồ Chí Minh đã chịu sự chi
phối bởi các áp lực bên ngoài hoặc một số
người ngoại quốc kể cả do sự tín
ngưỡng Staline, Mao Trạch Đông như Nguyễn Minh
Cần đã nhắc.
Trên thực tế, Cải cách
Ruộng đất là một bước đi bắt
buộc trong Cách mạng Vô sản mà Hồ Chí Minh đã
trở thành tín đồ thuần thành. Như thế,
Hồ Chí Minh chỉ thi hành nhiệm vụ của một
tín đồ nên không thể đặt vào cảnh ngộ
bị ép buộc bởi bất kỳ cá nhân nào. Tháo gỡ
trách nhiệm không còn cần thiết và cũng là vấn
đề bất khả, bởi tất cả đã
được quyết định từ khi chọn
đường. HCM đã chọn con đường
chủ nghĩa Cộng sản với cuộc Cách mạng
giai cấp diễn tiến trường kỳ cho tới
khi tận diệt giai cấp Tư bản. Cải cách
ruộng đất chỉ là một bước đi giai
đoạn trên con đường dài thăm thẳm đó
và là một bước đi không thể tránh.
Cho nên, tìm hiểu xem Hồ Chí
Minh có biết các thảm cảnh đang diễn ra hay không
để định mức trách nhiệm là việc làm
ngây thơ không khác việc Vũ Đình Huỳnh già yếu
bệnh hoạn vẫn cố chống gậy tới
gặp Hồ Chí Minh để than: “Máu đồng bào đã đổ mà Bác ngồi yên
được à?”. Có
phải chăng lời than này đã là một lý do
để không lâu sau đó tới lượt Vũ Đình
Huỳnh sau bao năm kề cận Hồ Chí Minh bị
tống vào nhà tù để trở thành một trường
hợp Nguyễn Thị Năm thứ hai?
Nhìn lại những sự
kiện Xô viết Nghệ Tĩnh và Cải cách Ruộng
đất, vì thế, không phải để cố phân tích
xem Hồ Chí Minh đã dính dấp ở mức độ
nào. Nghi vấn duy nhất nổi lên từ các sự
kiện này là chúng có xẩy ra không, nếu không có Hồ Chí
Minh?
Chú thích
(01) Đảng CSVN qua những
biến động trong phong trào Cộng sản Quốc
tế – Nguyễn Minh Cần. Xin xem chương liên
hệ ở phần I.
(02)
Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam – Trần
Văn Giàu, Tập III, Nxb TPHCM 1993.
(03)-(10)
Bác Hồ trên đất nước Lênin – Hồng
Hà, Thanh niên 2000, tr. 258. Xin xem chương liên hệ.
(04)-(06)
Việt Nam những sự kiện lịch sử –
Dương Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr.
192
(05)
Lịch Sử Đảng CSVN (Bài giảng) – Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội 1999. tr. 32-36.
(07)-(08)
HCM tuyển tập - Tập 2, Sự Thật, Hà Nội 1980,
tr.152 & 154.
(09)
Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch – Nxb
Văn Học 2001, tr. 88
(11)-(12)-(13)-(14)
Mặt thật – Thành Tín, Cali 1993, tr. 57, 37-38 & 36
(15)
Từ Thực dân đến Cộng sản – Hoàng
Văn Chí, tr. 189
(16) Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử số 267, Hà Nội 30-4-1993,
tr. 1-2
(17)
Việt Nam huyết lệ sử – Cao Thế Dung, Nxb
Đồng Hương, Louisia-na 1996, tr. 747-748
(18)
Tiến trình lịch sử Việt Nam –
Nguyễn Quang Ngọc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr. 327
(19)-(20)
Hắc thư về chủ nghĩa Cộng sản - Bản
tiếng Việt của Hồ Văn Đồng, Hội
Phát triển văn hóa Mỹ-Việt, Seattle 2002, T.II, tr. 1129-1130
– Phần phụ lục của người dịch.
(21)
Đêm giữa ban ngày– V.T. Hiên, Nxb Văn Nghệ, Cali 1997, tr. 32.
(22)
Những thiên đường mù– D. Thu Hương, Hà Nội
1990, tr. 17-29.
(23)-(25)-(27)
Mặt thật – Thành Tín, Cali 1993, tr. 59-60, 67-68, 39
(24) Tác giả chương 7 trong North Việt Nam Today – Xem
chương 25.
(26) Xin xem chương Nguyễn Minh
Cần.
Trung
Cộng nô lệ hóa CSVN qua Cải cách Ruộng đất
Tường Thắng 04-01-2006
http://www.vietnamexodus.org
Qua bài trước
chúng ta đã thấy rõ Trung Cộng đã nô lệ hoá
cộng sản Việt Nam như thế nào với cái
gọi là chỉnh huấn quân đội và chỉnh
huấn tư tưởng cán bộ. Trong bài này chúng ta
đào sâu thêm về câu hỏi Trung Cộng đã nô lệ
hóa Việt Cộng như thế nào qua cái gọi là Cải
cách Ruộng đất (CCRĐ).
Ai cũng biết, cộng
sản đồng nghĩa với đấu tranh giai
cấp. Từ lúc thành lập đảng, Việt Cộng
không hề giấu diếm chủ trương “cách
mạng thổ địa” của chúng. Lộ liễu
nhất là khi chúng xách động nông dân nổi dậy
ở Nghệ An và Hà Tĩnh, chiếm quyền ở
mấy địa phương mà chúng kiểm soát được,
tự xưng là “Xô-viết Nghệ Tĩnh” (mô
phỏng theo mẫu mực Xô-viết của đế
quốc Liên Xô), nêu khẩu hiệu “trí, phú, địa,
hào; đào tận gốc, trốc tận rễ” (có
nghĩa là tận diệt các thành phần trí thức, phú
nông, địa chủ, và cường hào). Không
được hưởng ứng, bị dẹp tan, tàn
dư bọn này chạy sang Xiêm, trở thành những
mầm mống đầu tiên của cộng sản Xiêm
(Thái Lan). Trong bọn này có Hoàng Văn Hoan, sau trở thành tay
sai thân tín của Trung Cộng cho đến chết.
Quá lộ liễu, làm bại
lộ quá sớm âm mưu bành trướng của
đế quốc Liên Xô, bọn cộng sản nổi
loạn ở Nghệ Tĩnh bị Quốc tế 3 lên án
nặng nề. Bị kiểm thảo, Nguyễn Ái Quốc
chối bay, đổ lỗi cho bọn cộng sản
địa phương “manh động”, “tả khuynh” v.v…
Rút kinh nghiệm bài học này,
NAQ năm 1945 về VN đổi tên là Hồ Chí Minh,
cướp quyền với danh nghĩa “giải phóng dân
tộc” và giấu biệt đi cái đuôi “đấu tranh
giai cấp”. Năm 1945, HCM đọc Tuyên ngôn Độc
lập, nhưng Liên Xô cũng như các chư hầu
cộng sản im re, không dám lộ mặt công nhận
“Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” của cộng sản
VN. Trung Cộng lúc đó còn đang nội chiến, chưa
có tư cách là một quốc gia, nên cũng không thể công
nhận VNDCCH.
Tuy thế, để tỏ
lòng trung thành với mẫu quốc cộng sản, trong
nội bộ, HCM tô đậm chủ trương “giương
cao hai ngọn cờ : (1) giải phóng dân tộc; và (2)
đấu tranh giai cấp”. Bản chất “lá mặt lá
trái” (double standard) của cộng sản VN đã bộc
lộ từ đó. Chiêu bài (1) HCM dùng lừa bịp
quốc dân VN để được tín nhiệm cho
cầm cờ “giành độc lập”. Chiêu bài (2) mới là
chiêu bài chính, HCM tạm thời giấu đi để
khỏi lộ tẩy mưu đồ lừa bịp nói
trên.
Vào đầu thập niên 40, CSVN
vẫn còn chủ trương thực hiện một lúc
hai cuộc đấu tranh: đấu tranh giải phóng dân
tộc, và Cải cách Ruộng đất. Nghị quyết
của Hội nghị Trung ương ngày 6-9/11/1940 họp
tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) với
sự tham dự của Phan Đăng Lưu,
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt
đã khẳng định: “Muốn xoá bỏ mâu
thuẫn cơ bản thứ nhất, phải làm cách
mạng thổ địa (revolution agraire) thủ tiêu các tàn
tích phong kiến, chia lại ruộng đất cho dân cày.
Muốn xoá bỏ mâu thuẫn thứ hai phải làm cách
mạng phản đế (révolution anti-impérialiste) đánh
đuổi đế quốc chủ nghĩa, làm cho
Đông Dương độc lập về kinh tế
cũng như về chính trị, chiếm lại những
nguồn nguyên liệu ở trong tay đế quốc
chủ nghĩa đặng mở mang nền kỹ
nghệ nặng cho Đông Dương. Như thế
cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn
hiện tại phải bao gồm có hai tính: phản
đế và thổ địa. Cuộc cách mạng gồm
có hai tính chất: phản đế và thổ địa
ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền
(révolution démocratique bourgeoise). Tại sao lại gọi là cách
mạng tư sản dân quyền? Bởi vì mục đích
của nó là thủ tiêu hết cả tàn tích phong kiến,
phát triển kỹ nghệ. Phải nhớ rằng cuộc
cách mạng ấy có tính chất "tư sản"
(caractère bourgeoise), nó không thể chạy thẳng ngay ra
khỏi cái khuôn khổ của một cuộc cách mạng
chỉ dân chủ thôi". (Lênin: Hai chiến thuật). Cách
mạng phản đế và cách mạng thổ địa
phải đồng thời tiến, không thể cái làm
trước cái làm sau.” (1)
Nhưng đến Hội
nghị Trung ương lần thứ tám tại Pắc Bó
(Cao Bằng) họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941,
với sự tham dự của HCM thì tiến trình Cải
cách Ruộng đất bị đẩy lùi về
đằng sau. HCM lý luận rằng phải giải phóng
được dân tộc trước thì mới làm Cải
cách Ruộng đất được, chứ đất
còn nằm trong tay Pháp thì lấy đất đâu
để mà cải cách. Vì nhu cầu ưu tiên kêu gọi
đoàn kết mọi giai tầng trong xã hội để
đánh Pháp trước đã, nên khẩu hiệu CCRĐ và
đấu tranh giai cấp phải giấu kỹ đàng
sau. Cái mà đảng CS cần nhất lúc đó là
giương cao ngọn cờ dân tộc để đánh
Pháp, nên cần sự hậu thuẫn, đoàn kết
của tất cả các giai cấp. Nghị quyết
của Hội nghị Trung ương lần thứ tám
khẳng định: “Tóm lại, nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, độc lập cho đất
nước là một nhiệm vụ trước tiên
của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương,
hợp với nguyện vọng chung của tất cả
nhân dân Đông Dương. Muốn làm tròn nhiệm vụ
đó, Đảng ta phải thống nhất lực
lượng cách mạng của nhân dân Đông Dương
dưới một hiệu cờ thống nhất, tất
cả các tầng lớp, các giai cấp, các đảng
phái, các dân tộc, các tôn giáo có tinh thần chống Pháp,
chống Nhật thành thật muốn độc lập cho
đất nước, thành một mặt trận cho cách
mạng chung… Vậy thì cuộc cách mạng Đông
Dương trong giai đoạn hiện tại là một
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng... Chưa
chủ trương làm Cách mạng tư sản dân
quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng
dân tộc… Không phải giai cấp vô sản Đông
Dương bỏ mất nhiệm vụ điền
địa đi dâu, cũng không phải đi lùi lại
một bước, mà chỉ bước một
bước ngắn hơn để có sức mà
bước một bước dài hơn”.
Đến đầu năm
1950, tại đại hội II của đảng CS,
với tư cách là tổng bí thư, Trường Chinh
đề nghị ba bước cần phải thi hành trong
Cải cách Ruộng đất. Trường Chinh viết:
“Bước thứ nhất:
tịch thu không bồi thường ruộng đất
của thực dân Pháp và của bọn phản quốc,
một phần lớn chia cho dân nghèo, một phần
nhỏ để làm đồn điền thí nghiệm, giảm
tô, giảm tức; cổ động quyên ruộng, thu
hẹp chế độ nông nô và chế độ bộ
lạc; phát triển hợp tác xã nông nghiệp.
Bước thứ hai:
tịch thu ruộng đất của đại
địa chủ chia cho dân cày; xóa bỏ tàn tích của
chế độ nông nô.
Bước thứ ba: thủ
tiêu toàn bộ chế độ bóc lột địa tô,
triệt để thực hiện khẩu hiệu
người cày ruộng có ruộng.
Chú ý: về việc chia
ruộng đất, cố nông, bần nông và các chiến
sĩ trong quân đội được ưu đãi
trước nhất. Tuy nói chung địa chủ tham gia
kháng chiến sẽ được bồi thường
nếu bị tịch thu ruộng đất, những
người được cấp ruộng phải
bồi thường cho chủ ruộng hay không và bồi
thường nhiều ít là tùy tình thế lúc tịch thu mà
quyết định. Đến lúc thủ tiêu toàn bộ
chế độ bóc lột địa tô, thì địa
chủ cũng được hưởng một phần
ruộng như nông dân; họ sẽ phải làm lụng trên
phần ruộng của họ và hóa thành nông dân.
Hiện nay ta đang ở
bước thứ nhất của việc Cải cách
Ruộng đất.
Tại sao việc CCRĐ
ở ta lại phải chia ra từng bước như
thế? Trong bước đầu này, ta chưa
đặt ra vấn đề tịch thu ruộng
đất của địa chủ là vì hiện thời
nhiệm vụ phản đế phải hoàn thành gấp
rút, nên nhân nhượng với địa chủ
để đoàn kết mọi lực lượng
đánh Pháp, là một việc tất nhiên. Vấn
đề then chốt của bước thứ nhất
là: giảm tô, giảm tức.
Sau khi kháng chiến thành công,
hoàn thành nhiệm vụ phản phong kiến là việc
trước mắt. Trọng tâm của cách mạng đã
chuyển từ nhiệm vụ phản đế sang
nhiệm vụ phản phong kiến, thì then chốt của
vấn đề Cải cách Ruộng đất lúc đó
lại là thủ tiêu chế độ bóc lột
địa tô bắt đầu bằng cách thủ tiêu
chế độ bóc lột của đại địa
chủ trước.” (3)
Xuyên qua tài liệu trên, ta
thấy đảng cộng sản VN lại một
lần nữa khẳng định việc hoãn lại
kế hoạch Cải cách Ruộng đất cho đến
sau khi đánh Pháp. Thế nhưng, tình hình thay đổi
hẳn khi Trung Cộng trực tiếp nhúng tay vào Việt
Nam.
Hoàng Tùng, cựu tổng biên
tập nhật báo Nhân Dân, viết trong hồi ký Những
kỉ niệm về Bác Hồ như sau :
“Sang Trung Quốc, Mao
đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới
Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo
của Stalin. Chuyến đi Trung Quốc và Liên Xô năm 1950
của Bác là chuyến đi gian khổ. Sau khi gặp Stalin
và Mao, hai bên cứ thúc ép Bác làm như họ, tức là liên
minh công nông, do Đảng lãnh đạo, lập chính
quyền công nông, rồi làm Cải cách Ruộng đất.
Bác chưa muốn làm Cải cách Ruộng đất.
Thuyết ba giai đoạn của đồng chí
Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là
có ý kiến của Bác. Theo thuyết ba giai đoạn thì
Cải cách Ruộng đất để sau, hãy làm giảm
tô, giảm tức. Đồng chí Trường Chinh phân tích
rất hay. Đại hội Đảng ta năm 1951,
đại biểu nước ngoài tới dự chỉ có
La Quý Ba [Trung Quốc]. La Quý Ba phát biểu chủ yếu
về thuế nông nghiệp. Họ đem các nề nếp
từ bên Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh
đảng, chỉnh phong từ Diên An sang. Sau Đại
hội ta không nói gì đến Cải cách Ruộng
đất, chỉ thấy nói đến lí thuyết ba giai
đoạn, vì thế nên mùa hè năm 1952 Mao Trạch
Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt
phải thực hiện Cải cách Ruộng đất. Sau
thấy không thể từ chối được nữa,
Bác mới quyết định phải thực hiện
Cải cách Ruộng đất. Bác viết một bài nhan
đề "Terre et eau" (đất và nước) kí
tên là Le Ding, đăng ở tạp chí Vì một nền hoà
bình lâu dài, vì một nền dân chủ mới. Bác nói
đại ý : Đất và Nước bao giờ cũng
đi liền với nhau, muốn giải phóng nước
phải đưa đất cho dân. Bác nói khéo để nói
lên việc phải Cải cách Ruộng đất.” (4)
Sức ép của cả Trung
Quốc lẫn Liên Xô đè nặng, Hồ Chí Minh phải
thực hiện Cải cách Ruộng đất, chứ
không thể tiếp tục trì hoãn đươc nữa.
Nhưng Hồ và đảng CSVN không được phép
thực hiện Cải cách Ruộng đất theo kiểu
Việt Nam – nghĩa là giảm tô, tịch thu và có bồi thường
tuỳ theo trường hợp; đằng này đảng
cộng sản VN phải thực hiện Cải cách
Ruộng đất theo kiểu mà Trung Quốc và Liên Xô
muốn.
Thế kẹt chết
người của cộng sản VN là nó có tới hai
mẫu quốc và hai mẫu quốc ấy lại kình
chống nhau. Trung Cộng ở gần, Liên Xô ở xa, cho
nên cộng sản VN trở thành nô lệ trực tiếp
của Trung Cộng và nô lệ “cách không” của Liên Xô.
Muốn nô lệ hóa Việt Cộng, biến chúng thành tay
sai “không có đường lùi”, Trung Cộng bức bách
Việt Cộng phải tiến hành đấu tranh giai
cấp, tự đào hố tách biệt khỏi khối
đoàn kết dân tộc, trở thành đồ tể
giết hại chính đồng bào mình, về sau có muốn
phản chủ cũng không còn đường mà phản
chủ nữa. Cũng với cung cách đó, sau này Trung
Cộng đã biến Pol Pot ở Campuchia thành đồ
tể lừng danh thế giới với tội diệt chủng
và sát trường “The Killing Field”. “Thế giới chia làm
hai phe”, Việt Cộng ôm cái mâu thuẫn “hai phe” đó vào
lòng dân tộc Việt, đã đủ kinh hoàng cho dân
tộc Việt rồi. Đến khi ngay trong “phe” xã
hội chủ nghĩa lại chia ra hai “bè” đánh nhau
nữa, Việt Cộng lại xô thêm dân tộc Việt vào
cảnh một cổ hai tròng, làm sao mà còn đường
thoát ! Về sau, rất lâu sau khi bị Trung Cộng xua quân
“dạy cho một bài học”, Việt Cộng lớn
nhỏ mới dám hó hé viết hồi ký đổ lỗi
cho Trung Cộng ép buộc chúng vào những đấu tranh
giai cấp đầy tội lỗi và rất ư không
cần thiết. Dù biện minh kiểu gì, ngàn đời
Việt Cộng không bao giờ rửa sạch
đưọc những vết nhơ trong lịch sử
qua những tội lỗi nói trên của chúng.
Trong cuốn hồi ký về Trường
Chinh - một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo
kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Hoàng Tùng
kể như sau:
“Trung Quốc phái sang một đoàn
cố vấn Cải cách Ruộng đất, chính
đốn tổ chức, cố vấn cho ban tổ
chức, ban tuyên huấn, công an. Họ chuẩn bị
đưa ra trước bộ chính trị của ta
một kế hoạch đầy đủ: Thành lập
các đội công tác, chỉnh đốn tổ chức
đi liền với Cải cách Ruộng đất.
Cuốn phim Bạch Mao Nữ, một điển hình
Cải cách Ruộng đất ở nước họ
được gửi sang để chiếu rộng
khắp, những bài giảng của họ gây ấn
tượng sâu sắc, kích động mạnh mẽ tâm lý
người xem. Các đội công tác chịu sự chỉ
huy trực tiếp của đoàn do Hồ Viết
Thắng trực tiếp nắm, có Kiểu Hiểu Quang -
trưởng đoàn cố vấn về chỉnh
đốn tổ chức Cải cách Ruộng đất
tham gia. Họ chọn lọc những người tố
cáo, kể khổ hăng hái nhất, nhiều khi bịa ra,
hoặc nói phóng đại ra cho bi đát, hấp dẫn,
kết nạp họ vào Đảng, hoặc đội
ngũ của cuộc vận động Cải cách
Ruộng đất. Các hội nghị tố khổ
diễn ra cả ngày, có khi kéo dài đến tận đêm
khuya.” (5)
Hoàng Tùng đã cho ta thấy
Trung Cộng buộc đảng cộng sản Việt Nam
phải diễn tuồng Cải cách Ruộng đất
theo đúng điển mẫu của mẫu quốc, và qua
đó chỉnh đốn luôn cả đảng cộng
sản VN theo khuôn mẫu Tàu. Hồ có phản đối gì
không? Ta hãy nghe Hoàng Tùng kể tiếp:
“Trung Quốc muốn qua
Cải cách Ruộng đất để chỉnh
đốn lại Đảng ta. Thời gian từ lúc
tiến hành Cải cách Ruộng đất đến lúc
dừng là 3 năm. Khi đó tôi thường
được dự họp Bộ chính trị do đó
cũng biết một số việc. Đó là việc làm
thí điểm cải cách ở đồng bằng và
chọn đồn điền Nguyễn Thị Năm.
Nguyễn Thị Năm tức là Cát Thành Long có một
người con làm trung đoàn trưởng ở cục
chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong
dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà
còn tham gia công tác của Hội phụ nữ từ năm
1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào,
các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức
Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình
Nguyễn Thị Năm cũng giống như các gia
đình Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô giúp
đỡ nhiều cho cách mạng. Chọn địa
chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là
do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp
Bộ chính trị Bác nói : "Tôi đồng ý người
có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không
phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại
nổ vào người đàn bà, mà người ấy
lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người
Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng
một cành hoa". Sau cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba
đề nghị mãi, Bác nói : "Thôi tôi theo đa số,
chứ tôi vẫn cứ cho là không phải". Và họ
cứ thế làm. Thuyết của họ là không dựa vào
tổ chức cũ mà tổ chức lại một số
tổ chức khác của Đảng, họ phủ
nhận hết các tổ chức khác như chính quyền,
các đoàn thể. Ai lãnh đạo Cách mạng Tháng tám thành
công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm
1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay
bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị
xử tử. Mục đích của họ không phải là
Cải cách Ruộng đất mà là đánh vào Đảng
ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại,
nếu không thì tan nát hết. Sau này có những phiên họp
Bộ chính trị tôi hay ngồi lại cùng Bác nói
chuyện. Có lần Bác trầm ngâm nói : "Mình đã nói
để kháng chiến xong đã, mới tiến hành CCRĐ,
cứ ép mãi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách ta, chứ
không theo họ". (6)
Ngay cả một Hồ Chí
Minh lúc nào cũng tự xưng tụng là “vĩ
đại” như thế, ngay cả một HCM
được Trần Khuê gọi là “thánh Hồ”, cũng
đành bó tay để mặc cho các cố vấn Trung
Cộng vung tay tiêu diệt có hệ thống toàn bộ cán
bộ trung kiên của Hồ. Như Hoàng Tùng đã tiết
lộ, ta thấy rất rõ chủ trương của Trung
Cộng là nô lệ hoá toàn bộ đảng CSVN.
Cuộc chỉnh huấn
đảng cộng sản VN do Trung Cộng thực
hiện qua cái gọi là Cải cách Ruộng đất
đã làm cho ngay cả đến tên sắt máu Lê Duẩn
cũng phải rùng mình. Nguyễn Đức Bình, hiện là
uỷ viên bộ chính trị, kể lại: “Tôi nhớ
tháng 11, 1952, anh Ba Duẩn trền đường từ Nam
Bộ ra Việt Bắc có ghé lại mấy ngày ở
cơ quan liên khu uỷ IV. Anh Ba nói về kinh nghiệm
Cải cách Ruộng đất. Anh nói: Ta phải làm theo cách
của ta, phù hợp với điều kiện của
Việt Nam.” (7)
Từ miền Bắc trở
về Nam Bộ, Lê Duẩn dứt khoát không tán thành
nội dung chính sách và phương pháp chỉnh huấn,
Cải cách Ruộng đất, chỉnh đốn tổ
chức như đã làm đầu những năm 50. (8)
Lê Duẩn nhìn thấy sự
thao túng của Trung Quốc, và không phải chỉ một
mình Lê Duẩn mà rất nhiều các cán bộ cao cấp
của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy
giờ cũng nhìn thấy điều đó. Nhưng
tất cả đều đã câm lặng không phản
đối, để mãi đến hơn 45 năm sau
mới dám than thở. Tố Hữu than: “Cuộc Cải
cách Ruộng đất đề cao một cách quá đáng
vai trò bần cố nông ở nông thôn và cả trong
Đảng, khiến người ta cảm thấy mục
tiêu đánh đổ một quan điểm chính trị còn
lớn hơn cả mục tiêu mang ruộng đất
về cho dân cày. Cuộc đấu tố kéo dài ngày càng
quyết liệt cho đến năm 1955, đầu 1956,
sau khi lập lại hoà bình, gây một tâm trạng hoảng
loạn ở nông thôn và cả thành thị mới
được giải phóng”
(9). Tố Hữu không bao giờ dám nhắc
lại những bài thơ sặc mùi “Hồng Vệ Binh” y
đã sáng tác để phục vụ cho tuyên truyền
thời “đấu tố”. Y cũng không bao giờ dám
nhắc đến hàng triệu người Việt Nam
bỏ xứ, từ Bắc di cư vào Nam, như là một
cuộc “bỏ phiếu bằng chân” của quốc dân
Việt, chống lại đấu tranh giai cấp,
đồng thời chống luôn đế quốc cộng
sản (cả Nga lẫn Tàu) và bọn tay sai bản xứ
là đảng cộng sản VN.
Những gì mà các tay tổ lãnh
đạo cộng sản bây giờ mới dám thổ
lộ ra - một chút ít - đã cho chúng ta thấy hình
ảnh của một tập đoàn tay sai ngay từ
thời chúng lập đảng cho đến ngày hôm nay.
Ngay từ “Thời Dựng Đảng”, chúng đã chủ
trương “Phải thực hành cho được chánh
sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế
Cộng sản”. (10).
Đảng cộng sản
thường hay khoe khoang “đảng ta vĩ đại”.
Trong thực tế, nếu đảng ấy quả
thật có “vĩ đại” thì nó chỉ “vĩ đại”
trong sự nghiệp làm tay sai cho các quyền lợi của
đế quốc, miễn sao “đảng ta” bảo
vệ được cái quyền ngồi trên đầu
trên cổ người dân, mặc tình sinh sát và vơ vét.
Qua sự lũng đoạn
và thao túng của cộng sản Tàu, chúng ta thấy
được dã tâm của Mao Trạch Đông là cố
tình làm cho đảng cộng sản VN phải vong thân
với quốc dân Việt Nam. Có bị quốc dân Việt
Nam xem như là kẻ thù thì đảng cộng sản
Việt Nam mới biến thành một tên nô lệ mãi mãi
lệ thuộc vào Trung Cộng. Thập niên 70, khi cộng
sản Pol Pot lên nắm quyền tại Cam Bốt, với
sự ủng hộ của Trung Cộng, Pol Pot đã tiêu
diệt hơn 2 triệu người Cam Bốt, và chính hành
động này đã đẩy bè lũ Pol Pot vào tư
thế trở thành kẻ thù truyền kiếp của quốc
dân Cam Bốt. Pol Pot không còn sự lựa chọn nào khác
đành phải biến mình thành tên nô lệ cho Trung Cộng
nhằm bảo vệ cái ghế quyền lực của
mình. Cho đến khi vì cần trao đổi với
Mỹ Trung Cộng đã không ngần ngại bỏ rơi
Pol Pot. Và y đã chết như một con chó ghẻ trong
sự nhờm tởm của loài người văn minh.
Trong lịch sử nhân
loại, chỉ có chế độ cộng sản khi
sụp đổ đã không để lại
được một cái gì ngoài sự tàn bạo của
nó.
Chú thích
(1) Văn
Kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945)
(2) Văn
Kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945)
(3) Văn
Kiện Đảng Toàn Tập, tập 11 (1950): Chính sách
ruộng đất của Đảng và vấn đề
điều tra nông thôn, ngày 10-2-1950
(4) Hoàng Tùng - Những
kỉ niệm về Bác Hồ.
(5)
Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà
lãnh đạo kiệt xuất của các mạng Việt
Nam (Hồi ký) - Nhiều tác giả. Nhà xuất bản Chính
Trị Quốc Gia, Hà Nội 2002. Bài của Hoàng Tùng, trang
139-140.
(6) Những
kỉ niệm về Bác Hồ - Hoàng Tùng.
(7) Lê Duẩn,
một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy
sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam (Hồi ký)
- Nhiều tác giả. Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội 2002. Bài của Nguyễn Đức
Bình, trang 151.
(8) Lê Duẩn (sdđ
phần 7). Bài của Hoàng Tùng, trang 240.
(9) Tố
Hữu - Nhớ lại một thời. Nhà xuất bản
Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội 2002. Trang 211.
(10) Văn Kiện Đảng Toàn tập, tập
2 (1930) - Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
II- QUA CÁC HỒI KÝ VÀ HỒI ỨC
Cải cách Ruộng
đất
Giám mục Phaolô
Lê Đắc Trọng
GM Phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội
Trích
“Những câu chuyện về một thời”,
xuất bản năm 2009, tập
3
Ở những nước
tư bản, có những chủ nhân, những xí nghiệp,
những nhà máy, có giới chủ với người
thợ, thì cuộc đấu tranh giữa thợ
thuyền và chủ nhân là nhằm đánh đổ giới
chủ, để có một lớp người vô sản,
để biến xã hội tư bản thành xã hội vô
sản.
Ở những nước mà
nguồn kinh tế chính là ruộng đất, thì nơi
đó giới thống trị là người có nhiều
ruộng đất, là những địa chủ, và
giới vô sản là những bần cố nông không
ruộng đất. Cuộc đấu tranh của vô
sản ở đây là nông dân nghèo vùng lên đòi lấy
ruộng đất từ các địa chủ, để
giới vô sản sẽ làm chủ nhân ông. Đó là tư
tưởng chỉ đạo việc Cải cách Ruộng
đất. Cuộc Cải cách Ruộng đất ở
các nước nông nghiệp là phương tiện chính
để vô sản hoá xã hội.
Ở Trung Quốc,
Đảng Cộng sản nắm chính quyền vào năm
1949. Liền sau đó là cuộc Cải cách Ruộng
đất long trời lở đất làm biến đổi
hẳn bộ mặt Trung Quốc, một nước vô
sản vĩ đại sau Liên Xô. Liên Xô là thành trì của
thế giới, đối với VN là anh cả, mà anh hai
là Trung Quốc.
1- Cho nên sau
cuộc Cải cách Ruộng đất ở Trung Quốc,
người Cộng sản Việt Nam cũng lăm le theo
gót. Phải nói: Cộng sản Trung Quốc đến sau Cộng
sản Việt Nam trong việc cướp chính quyền, song
Cộng sản Việt Nam từ đây mọi cái nhất
nhất phải theo Cộng sản Trung Quốc. Có
nhiều lý do: Hầu hết các lãnh tụ Cộng sản
Việt Nam đều phát xuất từ Trung Quốc,
hoặc chịu ảnh hưởng Trung Quốc hơn là
Liên Xô. Một là vì Việt Nam ở sát Trung Quốc,
việc giao lưu dễ dàng. Hai là tuy cách mạng Việt
Nam giành được độc lập trước Trung
Quốc, song nhờ Trung Quốc mà giữ vững
được vị trí, đặc biệt là nhờ
chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5-1954, trong
đó Việt Nam nếu không nhờ Trung Quốc tất
cả thì cũng là phần lớn.
2- Cộng
sản Trung Quốc một khi nắm chính quyền là
nắm toàn bộ, còn ở Việt Nam, nền độc
lập chỉ có trên nguyên tắc, Cộng sản còn
phải đánh nhau với Pháp nên chưa dám lộ diện
hoàn toàn. Chỉ mới là Đảng Lao Động, nhà
nước dân chủ cộng hoà.
3- Cuộc
Cải cách Ruộng đất nó dữ dội quá, giết
nhiều người quá, đã làm hoen ố bộ mặt
Cộng sản vốn luôn tuyên bố vì nước vì dân,
vì độc lập, với bao là chính nghĩa xuông, nên
Cộng sản Việt Nam có làm Cải cách Ruộng
đất cũng là một cách miễn cưỡng,
chẳng đặng đừng, và một cách dè dặt,
chứ không cực đoan, triệt để như Trung
Quốc. Cho nên họ phải đưa ra ông Trường
Chinh (Đặng Xuân Khu, người Hành Thiện, Xuân
Trường, Nam Định). Tuy là Tổng bí thư
Đảng, là lý thuyết gia của Đảng, nhưng
ít người biết đến tên tuổi ông,
đến mặt mũi ông. Ông được trao cho
nhiệm vụ thừa hành kế hoạch Cải cách
Ruộng đất, còn ông Hồ Chí Minh “giả cách đứng ngoài”. Kế
hoạch đó cũng đạt mục đích phần
nào, vì sau này tai tiếng đều trút trên đầu ông
Trường Chinh, mà “Bác Hồ” vốn “nhân từ” chỉ
bị liên hệ chút ít. Nhưng làm sao mà che mắt
được dư luận nhân dân. Ông Hồ là lãnh tụ
tối cao, ông Trường Chinh chỉ là tay chân, làm sao công
việc long trời lở đất đó lại qua
mắt được lãnh tụ tối cao! Sau này mới
có chính sách lãnh đạo tập thể, chứ lúc đó
mọi cái chỉ do mấy ông chóp bu định
đoạt. Dù cá nhân, dù tập thể, thì ai là lãnh tụ
phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên mặt ông
Trường Chinh không bao giờ được rửa sạch.
Mặc dù sau này ông làm Chủ tịch Quốc hội, ông
cũng không bao giờ vươn lên khuôn mặt kính mến
trước nhân dân.
4- Do chính
sách “chiếu cố” miền
Nam, Cộng sản Việt Nam ở miền Bắc chưa
dám lộ ra bộ mặt quá cứng rắn, quá tàn ác đi
tới mọi rợ.
Dù sao, cuộc Cải cách
Ruộng đất đã được thực hiện.
Sách “Biên niên sử Việt
Nam” không đề cập gì đến Luật
cải cách được ban bố ngày nào, thi hành ngày nào,
mà chỉ nói “Tháng 7 năm
1956: Hoàn thành Cải cách Ruộng đất ở miền
Bắc”. Ruộng đất đã về tay
nông dân, 10 triệu nông dân lao động đã làm chủ
ruộng đất, làm chủ nông thôn.
Nói “Hoàn thành Cải cách Ruộng
đất ở miền Bắc”, vì thực ra
đã có cuộc cải cách ở miền Trung, trong các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, giữa lúc quân đội
Pháp và Việt Minh đang gay gắt đánh nhau ở
miền Bắc, năm 1951-1952. Không những giật
lấy ruộng đất ở tay địa chủ,
cuộc cải cách ở miền Trung còn dập tắt
mọi mầm mống có thể nổi lên từ phía
quốc gia, để khỏi đi với Pháp chống
lại Việt Minh (Cộng sản). Ở miền Bắc
nghe thấy nói tới Cải cách Ruộng đất ở
Khu Tư là rợn người, đến khiếp sợ
cả người Khu Tư nữa.
Nói “hoàn
thành” là hoàn thành thế
nào? Đó là 10 triệu nông dân nghèo không ruộng
đất, nay có ruộng cầy. Cái kết quả
đẹp đẽ quá! Nhưng để tới kết
quả đó, đã phải có những phương
tiện nào?
Người Cộng sản
Việt Nam học được kinh nghiệm của các
anh Liên Xô, Trung Quốc, nên công cuộc được
tổ chức rất chu đáo cặn kẽ, từ lúc
phát động đến hoàn thành. Tuy nhiên, người
Việt Nam vốn có lòng từ tâm, nên những cách tàn
bạo quá đỗi ở Liên Xô hay Trung Quốc, không được
bắt chước đầy đủ.
Đầu hết là cái
khẩu hiệu “Người
cầy có ruộng” quá hợp tình hợp lý đi
thôi. Cho được thế, phải lấy ruộng
đất ở tay những người có nhiều quá mà
san sẻ cho những người không có tí nào! Đó
cũng là lẽ công bằng. Nhưng làm sao để vui
lòng san sẻ ? Giáo Hội có luật công bằng, xã hội
dựa trên bác ái. Cộng sản có phương châm
đấu tranh dựa trên căm thù. Làm thế nào
để khơi dậy căm thù, hay nói chung, để
thành cán bộ cải cách, Đội cải cách?
Nhiều trường
được xây dựng để đào tạo
Đội cải cách. Tôi biết một trường
như thế ở Phủ Lý. Tôi đã có dịp vào đó.
Nghỉ ở đó trong một buổi họp nọ.
Trường gồm độ vài chục căn nhà, mái
tranh vách đất, có vẻ tạm thời, nằm ở
phía đông nhà thờ Phủ Lý. Thị xã lúc này đã
bị phá huỷ theo sách lược “tiêu thổ kháng
chiến” hồi năm 1946-1947: không còn một ngôi nhà,
chỉ trừ nhà thờ.
Người ta dạy gì trong
trường? Tôi không rõ, tất cả là bí mật. Khi
thấy công việc Đội cải cách làm, thì biết
họ học gì, được huấn luyện thế
nào! Học xong họ
được phân đi các xã, các thôn, cũng hầu
như bí mật. Người tỉnh này được
phái đi các tỉnh khác để không ai biết họ, cũng
như họ không biết ai trong địa phương,
để hoàn toàn tránh những liên lạc, hoặc cư
xử riêng tư hay nể nang gì đó.
Mỗi xã được phân
phối dăm bẩy đội viên hoặc hơn kém tùy
theo xã quan trọng thế nào. Đội về đâu
ở đâu không ai biết. Họ sống theo chế
độ “ba cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Nghĩa là
họ đến một nhà nào đó, thường là
một bần cố nông. Người này ở một cái
lều, đồng chí Đội cũng chui rúc vào lều đó;
nhà đó ăn cháo, ăn cơm độn thì Đội
cũng ăn cháo, ăn cơm độn như họ;
bần cố nông đó đi cầy, đi cuốc thuê, thì
Đội cũng cùng làm y hệt. Người Đội
cải cách bắt rễ ở nhà nào, thì sống trong
những điều kiện của nhà đó, không có chi khác
biệt. Bởi đó người ta cũng không để
ý tới, đã mấy ai nghe nói đến Cải cách,
đến Đội cải cách mà theo dõi! Còn người
được Đội đến nhà, có thể lấy
đó làm vinh dự, đàng khác Đội lại khéo léo,
chấp nhận ăn chung, sống chung với nhau như
thế, khách chủ cùng cánh, dễ thông cảm và thân
mật.
Do cách sống gần gũi
thân mật với nhau, nhìn nhau mỗi ngày 24/24 tiếng,
người Đội khéo léo tỉ tê, khai thác
được mọi chuyện của người bà con
nông dân chất phác và dốt nát đó: Bác nông dân đó
kể lể về cảnh sống khổ sở của
mình làm sao? Lam lũ làm thân trâu ngựa thế nào? Bị hành
hạ làm sao? Bị áp bức và bị bóc lột
đến thế nào? Các anh địa chủ, các tên
cường hào kia ăn ở làm sao? Bóc lột áp bức
thế nào? Thế là lửa căm thù được nhóm
lên giữa những giai cấp khác nhau, để một
ngày kia sẽ bùng lên.
Sau khi mối hận thù
giữa các giai cấp chín muồi, thì phong trào Cải cách
được phát động rầm rộ. Quả nhiên,
những ngày hội của nông dân bắt đầu.
Từng đoàn thiếu nhi đeo trống ếch đi
khắp ngõ ngách xóm làng, tiếng tùng tùng tùng tùng bắt
nhịp với những tiếng hô đả đảo,
đả đảo địa chủ… đả
đảo cường hào… tiêu diệt ác ôn! Một tên
xướng lên, cả đoàn lập lại hai lần.
Bầu sát khí nổi lên bừng bừng. Bừng bừng
một cách giả tạo, miễn cưỡng, chứ
từ xưa tới nay dân làng vẫn sống cảnh thanh
bình đầm ấm; nhất là vào ngày tết, ngày lễ,
ngày hội, anh em bà con có đi làm ăn xa đến
đâu, cũng nhớ đến nơi chôn rau cắt
rốn trở về đoàn tụ gia đình. Cái luỹ tre
xanh bao quanh làng biểu tượng một đời
sống tĩnh mịch, êm ấm.
Tuy trong thời gian chiến
tranh, bom đạn có khuấy động đời
sống dân làng. Nhưng đã qua đi cái thời chiến
tranh loạn lạc… Nay khắp nơi ngày đêm ra rả
những tiếng ca ngợi hoà bình: hoà bình trong nước,
hoà bình trên thế giới. Xem ra chủ nghĩa xã hội
độc quyền cả hoà bình, còn chiến tranh là
của tư bản. Các hạng người vong bản, họ
nhập cảng một chủ nghĩa ngoại lai ở
đâu ấy, hô hào xây dựng nên cảnh bồng lai….
Vậy mà ngược với cảnh hoà bình êm đềm,
họ đưa xóm làng vào một cuộc cách mạng long
trời lở đất, Việt Nam chưa hề
thấy bao giờ!
Chiều chiều sau việc
đồng áng, khi bà con về cầu ao rửa chân tay,
cầy cuốc, chuẩn bị cơm tối, tiếng
trống ếch đã rộn rã trên các đường ngõ
trong làng, tiếng hô loa nổi lên mời bà con đi
họp, họ chờ đầy đủ không thiếu
một ai. Đi họp đầy đủ, chứ ai mà
dám ở nhà. Có thể đầu làng một đám lửa
bốc lên ở một đống rơm, một
chuồng lợn. Người ta cố ý đốt và
đổ cho bọn địch không chịu đi họp
đã gây nên. Chỗ khác, những viên đá, viên gạch ném
ra đường ngăn cản đội hoặc bà con
đi họp, là do bọn địch không chịu đi
họp gây nên!?!
Vào phòng họp, đội dõng
dạc tuyên bố: “Bà con nông
dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở
đằng sau ta…”. Người ngồi sau run sợ!
Một lúc nữa, đội lại nói: “Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay
trước mặt ta”. Ngồi trước ngồi sau
đều là địch cả. Không còn biết chọn
chỗ nào nên ngồi! Sợ sệt và sợ sệt…!
Ai nấy ngồi yên chỗ,
bắt đầu cuộc “đấu
tố”. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột,
đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột
đó. Mọi người bắt đầu cuộc
kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn
địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác
được bịa đặt ra nhiều hơn và
nặng nề hơn sự thật.
“Tôi vay hắn ta mấy bát
gạo, hắn ta bắt tôi viết văn tự thế
bằng một sào ruộng. Tôi không có gì trả, thế là
hắn ăn không sào ruộng của tôi. Và cứ mấy
lần vay như vậy, rồi không có gì trả, thế là
chẳng còn một mẩu đất để cắm dùi…”;
“Tôi cấy tô cho nó, chẳng may trời để mất
mùa, vì bão lụt, nó cứ thu tô như chẳng có tai hoạ
gì xẩy ra. Chẳng có gì mà nộp, nó cho người
đến tháo bộ cửa, dỡ mấy gian nhà tôi….”; “Tôi
nghèo khổ, đi làm thuê cho nhà nó, ăn đói, ăn khát,
nó còn đánh đập, tiền công không trả, nhà nó tìm
cách đuổi tôi đi để quỵt công….”
Và nhiều thứ tội khác,
chung quy là tội tàn bạo, bóc lột, đổ trên những
người bị quy là địa chủ, hay ác ôn,
cường hào. Có thể là tội cá biệt nhưng nay là
tội chung. Ai là đối tượng thì được
khoác cho những tội đó. Người nông dân thật
thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách
tố cáo. Tất cả đã được dạy
bảo, được đội “mớm” cho trước.
Thế rồi đấu!
Đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí
thế, chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất
hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột
nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ giơ tay
xỉa xói vào cái cột nhà mà rằng: “Mày đã cướp của tao, mày đã
đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn
bạo. Tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn
đói ăn khát…”. Tất cả phải
được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ
đến lời nói, để khi gặp “người
thật” thì không
ngượng ngùng ái ngại.
Đến nỗi có một
phụ nữ đứng tuổi, rất thương
người cha già chị săn sóc hằng ngày, vậy mà
chị phải nói với bố: “Ông có biết tôi là ai không?” Người cha ngậm
ngùi ngước nhìn đứa con dứt ruột của
mình và nói: “Thưa bà, con là
người đẻ ra bà ạ”. Lời thưa não nùng
thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma
quỉ nào đã thúc đẩy người con chất
vấn người bố như thế? Cứ đó mà
luận ra những kẻ khởi xướng!
Một bầu khí sợ hãi lan
tràn khắp nơi. Không hiểu tự đâu, Đội
cải cách có cái tài làm cho mọi người sợ
thế. Tôi cho là có ma quỉ đứng đằng sau
để giật dây. Không ai dám đến nhà ai, không ai dám
gặp nhau, nói chuyện với nhau. Gặp gỡ hay
chuyện trò có thể một lúc nào đó bị coi là âm
mưu tìm cách phá hoại Cải cách. Tội gì, chứ
bị cáo là phá hoại thì chỉ có mà chết! “Nhất Đội, nhì
Trời” cơ mà! Để tăng thêm nỗi
sợ hãi, chỗ này hay chỗ kia một đống
rơm, một chuồng lợn được đốt
lên, và phao tin kẻ địch phá hoại, không chịu
đi họp đã gây ra. Như thế, ai còn dám ở nhà
nữa? Chỗ khác tung tin: bọn phá hoại nấp trong
nhà, chờ Đội đi qua là ném gạch, ném đá. Ai
nấy đi họp cho nhanh, kẻo ở nhà dễ “bị
phát hiện” là
kẻ địch.
Vào buồng họp,
Đội nghiêm nghị tuyên bố: “Kẻ địch nó ngồi ngay trước
mắt ta”. Những người ngồi
trước giật mình! Lúc sau đội lại nói: “Kẻ
địch nó ngồi đàng sau chúng ta”. Người ngồi sau thất đảm! Ngồi
đâu cũng sợ hãi, không yên. Thế rồi ai cũng
phải phát biểu, không có truyện thì bịa truyện,
nói dối, vu cáo. Ăn không nói có… là đường lối
chính sách. Đội dùng những phương pháp khủng
bố tinh thần từ Liên Xô, nhất là từ Trung
Quốc. Văn hoá, não trạng của Tàu với ta khá
đồng dạng, nên ta học rất nhiều của
Tàu, được coi như bậc thày.
Tôi còn nhớ, trong một
buổi họp ở bên Tàu, một người tố cáo
người kia, được gán cho là địa chủ,
như thế này: “Nó
đổ cho tôi ăn trộm cái trứng gà của nhà nó.
Nó lý luận: cái trứng đó đem ấp, nở ra
một con gà, con gà đó lại đẻ ra hàng chục
trứng. Từ hàng chục trứng này, lại nở ra
một đàn gà. Đàn gà tăng lên, ít lâu thành trăm con,
bán đi làm gì mà không mua được đôi lợn,
rồi lợn tăng cân, bán đi làm gì lại không tậu
được đôi bò, rồi cứ thế dùng tiền
bán đi mà xây nhà, tậu ruộng. Ấy tội ăn
cắp nó đổ cho tôi, gây thiệt hại to lớn
đến thế. Ông bà nông dân nghĩ thế nào?” Toàn
thể hội nghị đã được học tập
đồng thanh hô: “Tịch thu tài sản của nó, còn nó
có đáng chết hay không, là phán quyết của Toà án nhân
dân”.
Cũng một chuyện khác
xảy ra bên Trung Quốc thời Cải cách mà Việt Nam
bắt chước. Ở một thành phố trước
kia có nhà “tiểu nhi”, tức trại mồ côi do các bà
phước đảm trách, các trẻ đưa
đến nhà tiểu nhi thường là các hài nhi hoặc là
trẻ em bị bỏ rơi. Các bà nhặt được
hoặc có ai đưa tới các bà đón nhận, rửa
tội cho chúng. Thường là không nuôi được, các
bà lo chôn cất hài nhi đó. Có rất nhiều.
Đội cải cách bắt
các bà khai quật các mồ, hài cốt chất đầy
từng thúng, cho lên xe ô-tô, các bà đi theo sau để
họ bêu riếu tội ác họ gán cho các bà. Các bà
đứng trên xe, với những hài cốt, xe đi qua
các phố, tiếng loa quát: “Đây
là những kẻ giết người, chúng đã giết
từng ngàn từng vạn hài nhi”. Dĩ nhiên là các
bà đứng yên đó không lời thanh minh, chỉ có
những kẻ hai bên đường phố lên tiếng
phỉ báng: “Bọn
giết người!”
Toà án Nhân dân và những án tử hình
Đội huấn luyện, chỉ
bảo, thúc đẩy nhân dân. Đội bảo án tội
thế nào, nhân dân cứ thế mà nói, thường là do quá
sợ hãi! Có làm theo chỉ là “bị”
phát động, do quá sợ hãi. Mọi việc đều
do “nhân dân” hình thức thi hành. Đặc biệt có Toà án
nhân dân, hằng ngày nhóm họp để xét xử hoặc
lên án những “tội
phạm” đã bị đấu tố.
Toà án nhân dân thành phần là các
bần cố nông, một chữ không biết mà
đứng làm quan toà, làm thẩm phán. Tôi biết một bà
thẩm phán ở xứ Phú Ốc, khi tôi lên làm lễ
thường ra chào bà. Nhà bà ở gần đường
vào nhà thờ, toà án có khi họp phiên ngay nhà bà, chật
chội phải chen chúc. Bà trạc gần 70, có cô con gái
tiến bộ, lấy ông chủ tịch thôn ngoại giáo.
Bà thật hiền lành, đạo đức, chữ
nghĩa không biết, không biết ăn nói nữa. Tôi
gặp bà, bà lễ phép chào tôi và chỉ cười. Đúng
là bà lão nhà quê, thế mà nắm quyền sinh sát trong tay.
Cũng may là làng Phú Ốc chỉ có ba bốn người
Công giáo bị quy lên địa chủ: Ông lang Thản, ông
Chuân ngày xưa đi lính cho Pháp, ông Cố Nhụ (có hai linh
mục Trinh và Thiện đi Nam), ông Kiều công nhân nhà máy
dệt…
Có người làm việc cho
nhà nước, cha mẹ anh em cũng vẫn bị quy
tội như thường. Ông Chuân có con làm cán bộ, em làm
hiệu trưởng trường lục quân; những
người này hình như sợ liên quan, không dám thăm
hỏi, xưng anh chị em gì cả. Phần đám
trẻ, gặp ông ở đường làng, chạy
đến giật râu ông và bảo: “Chào ông bà nông dân
đi”. Ông Chuân
phải khoanh tay chào lũ trẻ: “Con chào ông bà nông dân ạ”. Các địa
chủ khi gặp bất cứ người già hay trẻ,
phải xưng hô là “con”, và
thưa chào “ông” hay
“bà nông dân”.
Như vậy là uy thế
của địa chủ đã bị hạ trong hội
nghị, trong quần chúng. Cả từ “địa
chủ” cũng do tuyên truyền mà trở nên cái gì ác quái, ghê
gớm, xấu xa trong đầu óc quần chúng. Phải
công nhận cái tài nhồi sọ của Cộng sản!
Cùng bị hại với
những người bị quy là địa chủ, còn có
những người phải mang danh từ tội ác
nặng nề hơn, đó là “bọn
ác ôn, bọn cường hào ác bá”. Những
người này là ai? Thường là những người
làm việc dưới các chế độ khác như
thời Pháp cai trị, hoặc thời quốc gia. Họ
làm quan, làm viên chức, như Chánh phó tổng, Chánh phó
hương hội, Lý trưởng, Thơ ký, Thủ
quỹ của hương hội. Thậm chí cả
những người nào có uy tín trong quần chúng, những
người nào có vẻ đạo mạo….
Quy thành địa chủ, thì
phải theo tiêu chuẩn nào đó, như người đó
có một số mẫu ruộng, hoặc nhà ngói gốc mít,
ao cả ruộng liền, rồi thuê người làm
hơn là làm lấy, có thế mới dễ dàng quy vào
hạng bóc lột. Như vậy, việc quy lên địa
chủ ở nông thôn Việt Nam bị giới hạn
nhiều, vì ít làng có nhiều người ruộng liền
ao cả. Ở Việt Nam, người có vài ba mẫu
ruộng cũng bị coi là địa chủ; trong khi
ở các nước khác, địa chủ là người
có hàng trăm, nghìn mẫu ruộng.
Nhưng
những người có uy tín, có thế lực, thậm chí
được kính nể, thì tương đối
nhiều hơn là con số địa chủ. Ngoài ra,
ở xã hội ta, một xã hội có thể coi là phong
kiến, những người làm việc hương lý có
những hành vi tàn bạo, bất công, ức hiếp, hà
lạm… con số không phải là nhỏ. Vả lại dân
ta hiền lành, nên đôi nơi có người chẳng
giữ chức vụ gì, nhưng vẫn có thể xưng
hùng xưng bá, bắt nạt người khác với
những hành vi tàn bạo, đốt nhà cướp
của, cả làng khiếp sợ, không ai dám nho nhoe. Tất cả những người có uy
tín, hương chức có hành vi tàn ác, hoặc những
kẻ chỉ làm việc cho chế độ cũ (viên
chức, lính tráng) như thế đều bị quy là
cường hào ác bá, ác ôn, và những nhân vật loại này
còn nặng tội hơn là địa chủ, và đáng
bị tiêu diệt hơn.
Thế còn những viên
chức trong đạo thì sao? Cải cách Ruộng
đất làm ra vẻ rất tôn trọng tự do tín
ngưỡng, nhà thờ nhà xứ được bảo
đảm. Nhưng ngoài ra đều phải theo luật CCRĐ. Chẳng hạn nhà xứ nào có nhiều
ruộng đất, cha xứ cũng bị đấu
tố, xỉ vả như các người khác.
Tôi chỉ thấy có cha Thính
ở Vĩnh Đà không bị đấu tố, vì ngài không
dính dáng đến ruộng nương, không ăn nhờ
vào ai. Ngài còn tuyên bố: “Mỗi
ngày tôi chỉ vài chiếc bánh đa và nước lã là
đủ”. Nhưng cha Thu, thư ký cho Đức
Cha Tĩnh giáo phận Bùi Chu, thì bị đổ cho cái
tội “khoan đê”.
Ngài cho lời vu khống đó là quá trẻ con, ai lại
dùng chiếc khoan gỗ của thợ mộc mà khoan cho
vỡ đê được. Thấy quá lố bịch ngài
nhận cho xong. Thế mà thành tội thật và bị
đem ra xử bắn vì tội khoan đê. (Cũng có người bị khép
tội khoan đê như thế, người đó phải
cầm cái khoan của thợ mộc, khoan vào đê, cán
bộ chụp hình, làm chứng cớ tội phạm).
Hình phạt dành cho địa
chủ, cường hào gian ác v.v… do Toà án nhân dân lên án. Nói
đúng ra là cán bộ cải cách, chứ bà thẩm phán tên
là Thậm ở Phú Ốc nói một câu cũng không ra câu,
thì lên án làm sao?
Án phạt trước hết
là tịch thu nhà cửa ruộng đất. Người
đó bị đuổi ra khỏi nhà, đi ở đâu
thì đi. Họ dựng một cái lều ở đất
hoang nào đó để độ thân, còn nhà cửa thì
được chia cho ông bà nông dân, đặc biệt là
bần cố nông loại nhất, nhà to thì chia cho hai ba
người. Bên lương, họ không có 10 điều
răn Chúa, họ dễ dàng đến ở. Trước
đây ở các lều, các nhà lụp xụp, nay được
mấy gian nhà ngói, làm gì mà không nhận. Nhưng bà con Công
giáo thì khác, cũng có người ép tình nhận, đến
ở ít lâu, sau có dịp trả lại. Có người không
nhận, ít người vui vẻ nhận.
Khi hai ba người
được một cái nhà, họ thường chia nhau,
rỡ đi bán. Bán đi tiêu hết tiền, lại
trở về cảnh sống nơi túp lều. Ông trùm Tứ,
xứ Ba Trại, có căn nhà lá ba gian, được chia
cho hai người, lập tức họ chia đôi mỗi
người được gian rưỡi, họ lấy
cưa, cưa đôi gian giữa. Không biết rỡ về
làm được gì, họa chăng dựng
được túp lều?
Chú tôi ở Kim Lâm, tuy hai ông bà
đã chết hoặc đi Nam gì đó, có cô con gái lấy
chồng cán bộ, anh Hân, thế mà cũng bị quy là
địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho hai
người Công giáo; hai người chỉ lẫm lờ
nhận, nhưng không dám ở bao giờ. Em tôi vẫn
giữ mãi cho đến ngày không ở thì dâng cho họ giáo
để làm nhà phòng. Cảnh nhà cửa bị tịch thu
nó tương tự như thế.
Còn ao vườn ruộng
đất? Dĩ nhiên là được đem chia cho nông
dân hết, theo nguyên tắc chung. Đất đai là công
thổ, tất cả là của nhà nước. Do đó mà
ao vườn đất đai nhà thờ, nhà xứ,
cũng được đem ra chia hết.
Còn bản thân những thành
phần có tội với nhân dân thì sao? Từ khi Cải cách
được phát động, tối nào cũng họp bà
con nông dân. Đội cải cách nhờ chính sách “ba cùng” đã
nắm bắt tình hình các hộ, đã chia ra từng thành
phần: địa chủ, hay loại người
tương tự, phú nông, trung nông, bần nông, cố nông.
Chỉ có phú nông trở xuống mới được
đi họp, và dĩ nhiên bần cố nông là nòng cốt,
là lãnh đạo.
Ai mà không được đi
họp thì lo ngay ngáy. Số phận từ đây đã
được định đoạt: thành phần có
tội, đáng bị loại trừ khỏi xã hội.
Thành phần tuy đã được đội xác
định, song để cho có vẻ “dân chủ” thì sẽ có các cuộc họp
của nhân dân vạch mặt rồi định
đoạt số phận.
Có hai vòng họp, vòng họp
thứ nhất thành phần xấu không được tham
dự. Trong vòng họp này, bà con nông dân vạch mặt
bọn “địa
chủ, cường hào gian ác”. Ai cũng
phải phát biểu, nói thật thì ít, bịa đặt vu
khống thì nhiều, vừa nói vừa làm ra vẻ căm
phẫn, vừa nói vừa xỉa xói.
Sau khi đã cho việc tố
cáo là đủ, các cuộc họp chuyển sang vòng hai.
Những người đã bị các cuộc hội
họp tố, nay được triệu tập đến
để các thành viên khác đấu. Những cuộc
đấu tố này chẳng khác gì những phiên toà lên án
tội nhân. Những người bị tố trong các
buổi họp trước nay thành tội nhân mà nhân dân
sẽ lên án.
Tội nhân bị tố
nặng như có nợ máu với nhân dân, có thể bị
trói tay, bắt quỳ hay ngồi trên đất ở
giữa hội nghị. Những người đấu
tố lần lượt kể tội. Phạm nhân bị
cưỡng bức đó chỉ còn một việc cúi
đầu nhận tội. Nếu tỏ dấu thanh minh,
sẽ bị coi là ngoan cố, tội càng nặng hơn.
Không ai được phép bào chữa. Chỉ tỏ vẻ
thương cảm mà không tỏ vẻ phẫn uất,
cũng rất nguy hiểm, có thể bị coi là liên quan và
chịu vạ lây. Con cái cũng không được tỏ
bầy cảm tình đối với cha mẹ, còn phải
đấu tố cha mẹ là khác, để may ra
được ra khỏi thành phần.
Không phải người
bị đấu tố nào cũng phải xử bắn,
họ bị phân loại. Trên hết là địa chủ
gian ác, bóc lột, có nhiều ruộng, lại bị tố
cáo có những hành vi bóc lột, đánh đập
người ở. Ở bên Công giáo hạng này thì ít, vì
phần lớn những người giầu có, nhiều
ruộng nhiều thóc, như ở Sơn Miêng, ở xứ
Tâng (An Phú), Kẻ Vác… họ hiểu thế nào là CS, nên đã
cao bay xa chạy vào Nam từ năm 1954 rồi. Một
số đồng bào bên lương, đặc biệt
ở thành phố, cũng đã hiểu và cũng cao
chạy xa bay.
Nhưng số lớn
người bị bắn thường là những
người bị quy cho là cường hào gian ác, ác bá ác ôn…
Đây là những chức việc trong xã trong huyện,
hoặc là những người đã tham gia những
đảng phái khác như Quốc Dân Đảng,
Đại Việt… Cả những người trong
đảng Cộng sản bị nghi là tả khuynh,
hữu khuynh, có tư tưởng theo đường
lối xét lại, thậm chí những người trung
thành với Đảng, có uy tín cá nhân, nhưng lại có
vẻ không trung thành với lãnh tụ, nói cách khác, không
ăn cánh với cấp trên. Tất cả đều
bị coi là nguy hiểm và cần tiêu diệt ngay từ trứng
nước.
Tôi biết có hai người
bị tội bắn: ở Báo Đáp, một người
giầu có, xưa đã đi lính cho Pháp. Một
người khác ở quê tôi, làm Chánh tổng lâu năm.
Số người bị bắn không mấy làng không có, có
làng bị đến 2, 3 người, và con số ở
miền Bắc lên tới hàng vạn, hàng vạn
người.
Những người bị
tử hình hầu hết là bị bắn, hoặc bị
bắn ở cánh đồng, hoặc bị treo lên cành cây
rồi bắn. Cuộc xử bắn diễn ra
trước hàng vạn người, để có tính cách
răn đe. “Sát nhất nhân,
vạn nhân cụ”. Và đúng là thế, sự sợ hãi
lên tới cực điểm, tựa như có đám mây
đen bao phủ toàn dân. Phải triệt để khai thác
tình trạng sợ hãi này. “Không
được để lọt một thằng nào”.
Hiệu lệnh là thế! “Thà
giết nhầm 10 thằng còn hơn để một
thằng lọt”.
Các địa chủ trung bình
thường bị giam. Một số lớn cũng
bị giam cùng với họ là những người đã
cộng tác với chế độ ngày trước trong
hành chính, hoặc đã đi lính và đã có cấp bậc,
những trí thức xem ra không thiện cảm với
chế độ mới, những người đảm
nhiệm công việc trong tôn giáo mà có uy tín như Chánh
trương, Trùm trưởng, Quản giáo. Có cả
những đảng viên Cộng sản, thành viên Uỷ ban
Nhân dân bị nghi ngờ là không trung thành. Gần tôi như
ban Hành giáo xứ Kẻ Báng (Xuân Bảng), nhất là
Quản giáo bị bắt giam hầu hết. Xứ
Tường Loan (Ba Trại) chưa được năm trăm
nhân danh mà cũng mấy người bị bắt giam,
trong đó có cả anh Trưởng ban hát và một thanh niên
thường. Cũng ở xã đó, có anh Chủ tịch
Uỷ ban xã mà tôi mới trình giấy tháng trước, thì
tháng sau nghe nói đã bị bắt giam.
Trong thời gian bị giam,
thường họ bị cưỡng ép làm giấy thú
nhận đã có những hành vi phá hoại: như bỏ
trứng sâu vào lúa, phá hoại đê điều, đầu
độc người nọ người kia, và ai cũng
phải làm giấy nhận tội hết. Thời gian
bị giam thường là năm, bảy tháng. Có nhiều
người bị ngược đãi quá, hoặc bị
bệnh nặng thì được tha về, và chỉ ít
lâu sau thì chết.
Các địa chủ không có
tội gì, ngoài việc có máu mặt hơn trong làng xóm,
hoặc được người ta kính trọng hơn,
có uy tín hơn một chút, thì chỉ bị phân biệt
đối xử. Không còn quyền công dân như là bầu
cử, hội họp, không được làm chức
vụ gì trong xã hội, cả trong tôn giáo. Nếu là
người Công giáo, có đến nhà thờ cũng
phải ngồi dưới, không được ngồi
lên ghế trên. Con cái không được đi học,
trừ đứa nào tiến bộ, cố gắng thoát ly
ra khỏi giai cấp, bằng cách đứng với
bần cố nông, hăng hái đấu tố giai cấp
của bố mẹ, đi đến cả đấu
tố cha mẹ, mới được hưởng
quyền lợi đôi chút của xã hội. Nhưng không
bao giờ tẩy xoá được cái danh hiệu “con địa chủ”,
danh hiệu cha truyền con nối. Không được
cả đến cái “vinh
dự” đi bộ đội, vì còn bị nghi là
không trung thành, bởi đã mang dòng máu đối nghịch
truyền đời của giai cấp.
Có
những cán bộ xuất thân từ giai cấp địa
chủ, tư sản, từ đầu Cách mạng đã
hoàn toàn thoát ly và đã có thể giữ chức nọ kia,
có thể lên chức. Nhưng khi Cách mạng thành công,
họ không được trọng dụng lắm,
chẳng lên chức nào, mà còn bị thất sủng là khác. Những cán bộ như thế, trong
thời gian hoạt động, nhất là trong thời gian
Cải cách, không được, nói đúng ra, không dám có
một liên hệ gì đến gia đình. Có thể nói
cả đến tư tưởng cũng phải dứt
khoát! Nếu không sẽ bị liệt vào hạng liên quan và
bị đem ra xử lý. Không bị kết tội thì cũng
bị hạ tầng công tác.
Tất
cả những lãnh tụ, kể cả lãnh tụ vĩ
đại nhất cũng đều xuất thân từ
giai cấp địa chủ hoặc tư sản. Ông
Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), ba
anh em ông Lê Đức Thọ lý thuyết gia của
Đảng, ông Võ Nguyên Giáp, ông Phạm Văn Đồng...
đều là con cái địa chủ, hoặc là tư
sản. Các ông ấy là những người sáng lập, cha
đẻ ra chủ nghĩa vô sản Việt Nam, nhưng
các ông ấy đứng trên tất cả, thì ai làm gì
được các ông! Các ông đặt ra cái thòng lọng,
lại để cho cái thòng lọng thắt cổ mình làm
sao?
Giả sử các ông ấy là
nông dân thường, con nhà bần cố nông, thì làm gì có
cơ hội mà ăn học. Đàng này, hầu hết các
ông là học trò của trường Thành Trung (Carreau) Nam
Định, trường Bưởi Hà Nội… Phải là
địa chủ giầu có mới đủ tiền
gửi con cái lên các trường đó, có ông còn
được Thực dân Pháp cho đi ăn học.
Xét cho cùng, thì giới bần
cố nông phải biết ơn giới địa
chủ, tư sản, đã phát động phong trào cải
cách để họ nâng lên vai trò lãnh đạo. Còn các nhà
cải cách phát động phong trào, tô điểm mỹ
miều cho cái danh từ “thoát ly” mà họ mắc vào, chứ
thực ra họ là những người “phản giai
cấp”. Và công
luận không bao giờ cho phép xoá đi cái danh hiệu con nhà
“địa chủ”, mà họ đã dầy công bắt người ta
bôi nhọ bằng đủ cái xấu. Gậy ông lại
đập lưng ông là thế.
Một số kinh
nghiệm riêng tư về Cải cách
Ngoài xứ Nam Định là
chính, tôi còn phụ trách hai xứ Phú Ốc và Tường
Loan, hai xứ thuộc nông thôn nên có Cải cách Ruộng
đất.
Tôi vẫn đi lại xứ
Phú Ốc một cách dễ dàng, vì chỉ cách chỗ tôi
ở thường xuyên có 3 km. Chúa nhật nào tôi cũng lên
đó dâng lễ, cả thứ Sáu thứ Bẩy
đầu tháng. Còn như là bắt buộc phải
đến đó vào các ngày lễ. Theo Đội cải
cách, đang làm việc gì, ở đâu ngày nào thì cứ
việc làm, nếu bỏ thì y như là phá Cải cách, làm
cho Cải cách mang tiếng phá đạo.
Đạp xe đạp lên Phú
Ốc, cứ đến bờ hồ trước nhà
thờ, thì lần nào cũng có chị Đội cải
cách đứng đón ở dưới gốc cây bàng.
Chị mặc quần áo đen, đeo túi, và nói với tôi
cách nhã nhặn: “Mời
linh mục vào hội ý”. Tôi bước theo
chị, sang xóm bên lương, vào một túp lều,
chắc là ngôi nhà của vị bần cố nông
Đội đã bắt rễ. Ngủ nghỉ, ăn làm,
bếp núc là trong căn lều đó. Tôi ngồi trên
nệm rơm với anh Đội bên cạnh bếp. Trong
cuộc hội ý, anh ân cần nhắc nhở tôi, lần
nào cũng một tư tưởng: “Linh mục cứ về làm lễ như
thường, linh mục lưu ý là ở đây có nhiều
phần tử xấu. Trong khi giảng đạo linh
mục không được nói gì gây chia rẽ”.
Nghe xong, tôi đứng dậy, ra dắt xe vào nhà thờ
dâng lễ. Cả việc rước kiệu cũng
phải giữ, không được bỏ.
Tình hình Cải cách ở
đây xem ra không gay gắt như ở các nơi khác. Dân
cư ở đây, nhất là người có đạo,
hiền lành tử tế hơn. Bà thẩm phán là bà Thứ,
gặp tôi vẫn chào hỏi như các con chiên tốt lành
khác. Mấy anh du kích như Trường, Vu v.v… bà con sau này
kêu là quá đáng, vì có những cách đối xử tàn
bạo với những người bị quy là địa
chủ. Người trong xứ đi Nam hầu hết,
chỉ còn lại gần năm trăm, thế mà cũng có
3 người bị quy là địa chủ. Địa
chủ thường, chỉ bị đấu tố thôi.
Trong ba ông, già nhất là ông
Chánh Lục, làm thày lang, hiền lành đạo đức.
Thế mà ông cũng bị tố là đã cho thuốc
độc vào quả táo để đầu độc
đội cán bộ. Ông thứ hai là ông Chuân, trước
kia có đi lính thời Pháp; ông có râu nên bị trẻ con
giật râu, bắt phải chào hỏi theo lối
Đội cải cách (trẻ con mặc quần thủng
đũng): “Con chào ông bà
nông dân ạ!”. Ông có người anh tên Cao, làm
hiệu trưởng Trường Lục quân, con trai làm cán
bộ trung ương, song chẳng ai thèm ngó tới ông. Ông
thứ ba là ông Kiều, công nhân nhà máy dệt Nam
Định, như thế là thuộc giai cấp lãnh
đạo, giai cấp công nông (búa liềm). Chỉ vì ông hay
nói, và có nói không đúng chính sách, nên ông bị quy “tội phản động”,
và bị tố là đã cho thuốc độc vào quả
táo để sát hại nhân dân.
Tôi cũng trông thấy đám
nhi đồng quàng khăn đỏ, chiều chiều
đi đánh trống phát động phong trào, tối
đến bà con đi họp đông đủ.
Ở Tường Loan (Ba
Trại), phong trào Cải cách tương đối
mạnh mẽ, gay gắt hơn. Đến làm lễ Chúa
nhật ở đó, thường là phải xin phép trước,
xin phép cơ quan thành phố Nam Định, chứ không
phải xin phép Đội. Xin minh họa qua một cuộc
cử hành lễ Chầu Lượt tại Ba Trại.
Đó là vào dịp Tết
Nguyên Đán năm Bính Thân (1956). Chúa nhật Chầu
Lượt rơi vào chính ngày Mồng Một Tết.
Một tuần trước, tôi đến Ba Trại để
giải tội (vì cho rằng ngày Mồng Một Tết
không có thì giờ giải tội).
Theo lệ, đến đâu
là phải tới chào Đội ngay để “hội ý”. Xong
công việc, khi trở về, cũng phải ra chào
Đội. Bởi vì chào lúc đi, rồi sắp trở
lại ngày Tết. Đội nói với tôi:
- Lần
sau ông đến, có gì xẩy ra ở đây, ông phải
chịu trách nhiệm!
- Ông nói thế thì cũng
như cấm tôi ra đây. Tôi ví dụ: nếu ông treo ở
cổng làng tấm bảng đề: “Ai vào làng này sẽ phải chịu trách nhiệm
về cái gì xẩy ra nơi đây”, thì nhìn bảng
yết thị như thế, ai còn dám vào làng? Tôi cũng
không dám!
- Ông
nói thế thì được. Ông cứ việc
đến, có thế nào thì sẽ xét -Anh Đội
đấu dịu- chứ
không đóng sống cho bất kể ai vào làng này đâu!
Có lẽ chỉ mình tôi dám ý
kiến thẳng với Đội. Nhất Đội nhì
Trời cơ mà. Ai dám nho nhe!
Ngày thứ Bẩy
trước Chúa nhật lễ Chầu, tức hôm 30
Tết, tôi xin giấy ra Ba Trại làm lễ Chầu.
Đến Khu phố, Khu phố bảo đến Công an.
Đến Công an, Công an bảo đến Mặt trận.
Nộp đưa các đơn có phải là dễ đâu.
Biết thân phận mình thuộc thành phần rốt
hết, nên nộp đơn phải cẩn thận,
đặt dưới cùng đống đơn bà con
đến trước đã dầy cộm. Cán bộ
cứ lần lượt xét, giải quyết từ trên
xuống dưới. Cuối cùng đến lượt
mình, may mà còn thì giờ nên đơn được cầm
lên. Nếu hết giờ, chưa đến lượt,
thì về không; sáng đến chiều, chiều đến
hôm sau, cứ mỗi buổi đơn thêm nhiều bao
nhiêu, của mình vẫn ở cuối cùng. May mà lần này,
vẫn còn giờ, nhưng lại được
đẩy đến cơ quan khác. Trong một ngày 30
Tết đó, tôi được đẩy đi qua
hết mọi cơ sở hữu quan, có nơi đến
lần thứ hai. Tới chiều, khi mọi cơ quan
đều đóng cửa về ăn tết, tôi vẫn không
bị từ chối, nhưng bị đẩy đi các
cửa. Đến khi các cơ quan đóng cửa hết,
tôi đành cầm đơn về không. Thế là ngày mai Ba
Trại không có lễ Chầu!
Đêm 30 Tết đó thật
là tối. Tối như đêm 30 Tết mà! Kẻ trộm
cũng rình mò tối hôm đó hơn các đêm khác. Trong dân
gian lưu truyền vậy. Tất tả suốt ngày,
đêm đến giấc ngủ đang ngon thì bỗng có
tiếng gọi cổng nhà xứ. Công an gọi tôi cấp
tốc ra đồn. Có việc gì mà khẩn cấp
thế? Mắt còn đang cay xè, tôi bước theo anh công an.
Đi thế này, trong đêm tối thường chỉ là
bị bắt và điệu đi giam. Thế mà sao lúc này,
tôi chẳng có ý nghĩ gì về chuyện đó, nên không
thấy xao xuyến gì. Một số cán bộ ngồi
đó cho biết Toà Giám mục Hà Nội vừa ra một
Thư Chung phản động. Thư Chung Đức Cha
Trịnh Như Khuê vừa viết là về đề tài
Tình yêu. Họ giải thích đó là bức thư chống
Cải cách Ruộng đất, đặc biệt qua
sự tha thứ cho thù địch, và như thế là tha
thứ cho địa chủ, bọn phản động,
cường hào ác bá.
Tình yêu, yêu mọi người
cả kẻ thù nghịch, đó là luật căn bản
của đạo Phúc âm. Cuộc tranh luận nổ ra ngay
ban đêm. Giữa một bên là cha chính Nhân với tôi và bên
kia là cán bộ của Uỷ ban. Không thể và không dám
bắt chúng tôi bỏ đi lề luật căn bản
ấy của đạo, họ chỉ đòi chúng tôi là
không được đọc thư đó và nộp cho
họ các bức thư. Chúng tôi không nộp.
Sau đó họ hỏi tôi có
làm lễ Chầu ở Ba Trại không? Tôi nói các ông có
cấp giấy đâu mà làm, tôi đã đi suốt ngày
để xin giấy, cho đến lúc các cơ quan
đều đóng cửa cả mà không nơi nào giải
quyết cả. Họ nói: “Sáng
mai ra đồn Công an lấy giấy”.
Sáng hôm sau, Chúa nhật Mồng
Một Tết, tôi và cha chính Nhân thỏa thuận tóm tắt
Thư Chung rồi nói, như thế mọi người
đều hiểu căn bản về bức thư.
Lễ xong tôi ra đồn xin
giấy. Đến đồn, chưa ai thức dậy,
tôi phải đánh thức họ. Một anh công an hỏi
tôi cần gì? Tôi nói đêm qua, Uỷ ban Thành phố có
bảo tôi sáng nay ra đồn lấy giấy.
- Hôm nay không cấp giấy! anh công an nói.
- Tôi biết, hôm nay ngày
Tết, chỉ kẻ nào không có trí khôn mới đến
cơ quan xin giấy. Nhưng vì tối qua Uỷ ban bảo
sáng nay ra đồn lấy giấy, nên tôi mới
đến.
-
Được rồi! Ông cứ về đi! Chúng tôi còn xét…
Tôi về nhà được
độ 5 phút, có tiếng gọi rối rít ở sân:
- Ông
Trọng ơi! Ông Trọng ơi! Ra đồn lấy
giấy!
Tôi vội vàng đi theo anh công
an ra đồn. Đến văn phòng, ngay ở cửa,
thấy chiếc bàn trên có bày la liệt bánh kẹo, ấm
chén.
Một anh công an ở
buồng trong đi ra, có lẽ là đồn trưởng.
Anh chúc mừng năm mới tôi, rồi tôi chúc mừng
đáp lại. Trong vòng 10 phút mà quang cảnh rất khác nhau.
Anh đồn trưởng mời tôi ăn bánh kẹo,
uống nước trà để mừng xuân, cùng nhau vui
xuân một lúc. Anh đưa cho tôi giấy thông hành có giá
trị ba ngày. Tôi xin phép đi, anh ân cần hỏi:
- Linh mục có phương
tiện gì không?
- Có, tôi vẫn đi xe
đạp.
Tôi vừa nói xong, thì một
người từ cổng chạy vào nói:
- Có tôi giúp linh mục.
Tôi nhận ra người
đó là anh Đội cải cách, tôi đã gặp ở Ba
Trại. Tôi về nhà lấy xe đạp, cùng sánh vai
với anh, qua các đường phố. Đường
phố lúc này còn vắng vẻ. Chưa tới giờ
xuất hành mà! Ra khỏi thành phố, trên con
đường qua cánh đồng để đi tới
Ba Trại, tuyệt không một bóng người. Nhưng
trên cánh đồng, ở đàng xa, lủi thủi mấy
bóng người. Tôi đoán có lẽ là những địa
chủ, đã bị tịch thu hết nhà cửa tài
sản, không được vui tết với ai cả,
đành lang thang trên cánh đồng.
Đến gần nhà thờ,
trước cửa nhà ông Sặt, một gia đình
được Đội coi là thân thiện, anh Đội
chia tay tôi, để tôi một mình vào nhà xứ. Trong vòng
mấy tiếng đồng hồ, các màn kịch diễn
ra thay đổi như trở bàn tay. Lúc thì xua đuổi,
lúc thì ân cần đón tiếp, săn sóc đến nơi
đến chốn, để rồi đưa vào cạm
bẫy.
Những màn sau đây cũng
được sắp xếp, có đầy tình nghĩa,
song lại được lái vào những mục tiêu gian
dối và thâm độc hơn.
Tới nhà xứ, ba gian nhà
khách đã đầy ắp người, im lặng như
đang có cái gì. Hay nói đúng hơn, với dáng dấp
sợ sệt, không ai hé môi.
Một ông dắt xe
đạp của tôi, để vào một chỗ. Một
bà bưng chậu nước nóng để tôi rửa
mặt rửa tay. Trời lạnh mà! Tôi biết tên hai
người: ông Lộc, bần cố nông nay Đội
cải cách cắt làm Trùm, bà Giảng, cũng là bần cố
nông nay được cất làm Quản giáo. Ông Lộc, bà
Giảng hôm nay được Đội chỉ
định để hầu hạ tôi.
Tôi vào ngồi giữa nhà, bà
con tất cả ngồi chung quanh, chen nhau trong nhà, không ai
ngồi hè. Anh Chung, con người tôi chưa biết, thay
mặt cho mọi người chúc tết tôi, rồi anh
tuyên bố: “Thưa Cha,
những người đội lốt đã bị
lột mặt nạ, và đội đã tống giam
cả rồi. Xin cha cứ yên trí ở lại với chúng
con, nghỉ lại đêm Mồng Một với chúng con”.
Nhìn chung quanh, không thấy ông
Chánh trương Huỳnh, ông Trùm Tứ, ông Quản giáo
Luỹ, ông cựu Trùm Trạch, tôi biết ngay những
người đội lốt là ai. Thấy thế, tôi
định tâm không ở lại đêm nữa, mặc dù
tôi có giấy và có ý nghĩ từ trước là sẽ
ở lại.
Thấy trước mặt mình
có người lạ chưa quen biết, tôi hỏi anh ta:
- Anh là người thế nào
mà tôi chưa biết? Dân xứ đây tôi biết hết.
-
Thưa Cha, con ở Phủ Lý về đây!
- Sao đang ở Phủ Lý
lại về đây?
- Con xin thú thực với Cha,
con là người Thanh Hoá, gia đình con kéo nhau đi Nam.
Đến Phủ Lý con bị cản lại, nên về
đây!
- Anh cứ ở đây,
đất lành chim đậu, đi Nam làm gì?
Khi mọi người
giải tán, lên nhà thờ, ông trùm Lộc thắc mắc
với tôi?
- Sao ban nãy Cha lại nói
chuyện với người lạ?
- Tôi thấy người
đó lạ, tôi phải hỏi.
- Anh ta không có nhiệm vụ,
mà anh dám vào tiếp xúc với cha. Cái này con phải ra trình
Đội!
Rồi tôi ra nhà thờ cử
hành Thánh lễ, lễ xong đặt Mình Thánh Chúa. Lễ
Chầu năm nay chỉ có những người trong
xứ chầu Mình Thánh với nhau, trong bầu không khí
buồn tẻ sợ hãi. Ngoài việc giải tội
những người không đi kịp tuần trước,
chẳng một ai đến tiếp xúc với tôi, trừ
ông trùm Lộc, bà Giảng lo liệu việc cơm
nước cho tôi. Thêm anh Chung, lúc nào cũng săn đón
tôi để xin xưng tội, dù bị giãn. Anh là
Đội cải cách hoạt động ở vùng Gia
Trạng, Đại Lại, không biết bị thất
sủng hay được sai về làm việc ở quê.
Nếu được làm việc ở quê thì cũng khác
thường, vì hầu như theo quy luật, Đội
cải cách phải hoạt động xa quê quán của
mình, để dễ “khách
quan”.
Đến 5 giờ chiều,
tôi trở về Nam Định. Không dám ở lại
đêm như đã dự định, vì những
người thân quen làm việc bên tôi đã bị bắt
giam hết.
Còn truyện ông trùm Lộc
đi báo cáo với Đội về anh Long nào đó,
tức là người lạ mặt mà tôi hỏi chuyện
trong buổi chúc mừng tết ở Ba Trại hôm ấy,
thì không phải do lòng độc ác đâu. Ông chỉ quá
thật thà làm theo kế hoạch Đội đặt ra
mà không hay biết.
Kế hoạch là làm thế
nào bắt anh Long với những bằng chứng rành rành
không thể chối cãi được. Trước hết
anh có mặt trong buổi họp, nơi anh không
được phép đến, trừ ra Đội cho phép
hoặc thúc đẩy. Đến chỗ họp, anh
được xếp ngồi một mình trước
mặt linh mục, để linh mục phải bó buộc
bắt chuyện. Giả sử không có cuộc tiếp xúc
đi nữa, cũng không thành vấn đề. Nguyên
việc anh là người lạ, mà có mặt bên những
con chiên của cha, là anh đã trà trộn vào với ý
đồ. Sự có mặt, việc tiếp xúc đó, ông
Trùm là người có nhiệm vụ phải quan sát tất
cả, và đúng là mọi cái không qua mắt ông, dù ông là
người chột mắt. Ông đi báo cáo với
Đội. Thế là tội anh Long có đủ bằng
chứng không thể chối cãi được. Nghe đâu
anh đã bị bắt giam ngay, và trong khi bị giam anh
đã khai: “Tôi đã gặp linh mục, linh mục có trao cho
tôi một chai axít, để đổ vào cán bộ. Tôi ra
khỏi sân nhà thờ, đến bờ ao, tôi đã ném
xuống ao rồi”.
Cán bộ cũng không bắt
anh phải xuống ao mò chai axít đó, vì làm gì có! Có
xuống mò thì cái gian dối lại thò đuôi ra. Mặc dù
thế, anh vẫn bị kết án. Giá người có
tội thật thì phải xử bắn. Nhưng tội
của anh, chỉ là trong kế hoạch thu xếp của
Đội, không có thật. Dù thế, anh vẫn bị ba
tháng tù, rồi bị đuổi về Thanh Hoá, quê quán
của anh. Nói chung, những người bị bắt
dưới thời Cải cách, hầu hết rơi vào
tình trạng “phạm tội” như thế.
Cũng ở Ba Trại,
một anh thanh niên tên Ghi, con bà Hồi, còn bị khép tội
một cách trâng tráo hơn nhiều. Một buổi
chiều nọ, trong tháng 3 năm 1956, đội đưa
anh Ghi xuống Nam Định. Đến cổng trại
An Phong, Đội bảo anh vào gặp linh mục, lúc này là
cha già Nguyễn Phúc Hạnh. Anh ngơ ngác, rụt rè một
mình đến với cha, cha hỏi:
- Anh ở đâu, có việc gì
?
Anh ấp úng đáp:
- Con ở Ba Trại, trình...
trình.... cha..
Cha Hạnh đuổi ngay.
- Ba Trại thì xuống cha
xứ mà trình, tôi không biết.
Anh lủi thủi đi ra
cổng, vẫn gặp anh Đội đã đưa mình
đi. Anh Đội bắt nghiến lấy với
tội danh: “Đã đến tiếp xúc
với linh mục, nhận chỉ thị để về
gây tội ác”. Vì tội đó, anh
bị giam một năm. Chuyện thật trăm phần
trăm.
Cả đến đồng
chí Chủ tịch Uỷ ban xã Mỹ Tân (Ba Trại) tên là
Đán cũng bị bắt giam với tội danh “bỏ
trứng sâu vào ruộng ngô”. Anh còn phải diễn lại “tội ác” bằng cách
cầm một hộp bích quy đựng tro và rắc trên
ruộng trước ống kính nhà nhiếp ảnh.
Thật là nhọ nhem!
Tất cả các viên chức
hàng xứ Ba Trại đều bị khép tội như
thế. Ông Huỳnh, ông Tứ, ông Lũy, ông Nguyệt, ông
Trạch.... bị quy địa chủ, bị bắt giam
một thời gian mấy tháng. Các ông đều làm giấy xin tôi tha tội, vì trong
khi bị giam các ông đã “dại dột” đổ tội
cho tôi đã đưa trứng sâu cho các ông để
bỏ vào lúa.
Những chuyện có vẻ
trẻ con đó mà hậu quả thì rất nghiêm trọng,
chắc chắn đã diễn ra trên khắp miền
Bắc. Đó là chính sách Cải cách Ruộng đất,
đâu đâu cũng phải thực hành theo cùng một cung
cách như nhau. Anh Đội nào, địa phương nào
mà dám làm khác? Và con số những người bị vu
khống oan ức như thế, phải lên đến hàng
triệu!
Người trần gian mà làm
ông tổ của nói dối, vu khống là đại văn
hào Pháp Voltaire. Ông đã đưa ra một khẩu
hiệu: “Bạn cứ nói
dối, nói dối khoẻ hơn nữa đi! Thế nào
cũng còn cái gì!”. Phải, thế nào cũng còn cái
gì! Quần chúng phẫn nộ trước sự gian
dối độc ác. Khi vụ Cải cách phải sửa
sai, họ đi tìm các anh Đội mà rạch mép rạch
mồm, những cái mồm mép đã phun ra bao là dối trá,
vu khống. Cũng may mà chỉ tìm ra được số
ít, vì không biết họ từ đâu mà đến,
để gieo rắc bao tai họa cho thôn làng. Nhưng
chuyện mấy tên bị rạch mép cũng đủ làm
im đi những môi mép đã phun ra bao nọc độc
chết chóc.
Phong trào Cải cách
Ruộng đất khựng lại
Phong trào Cải cách đang vùn
vụt tiến tới, đỉnh ngọn lửa
đấu tranh đang ngùn ngụt bốc lên như hoả
diệm sơn, thì đùng một cái nó khựng lại.
Nguyên nhân tại đâu ?
Nhà nước thì gọi giai
đoạn này là “sửa
sai”. Nói đến sửa sai tất nhiên
đã có sai lầm. Có sai lầm không? Đảng thì không
thể sai lầm được! Nhưng Đảng
đã khéo dự phòng, chọn “con
dê gánh tội” là ông Trường Chinh. Ông là nhân
vật bí ẩn, trước nay có ra trước công chúng
bao giờ! Không ai biết mặt ông, chỉ biết tên. Tha
hồ mà đổ tội cho ông. Ông chẳng sao cả, vì
ông đúng như một nhân vật “vô hình vô tượng”!
Sai do chỗ nào? “Nhất Đội nhì Trời”.
Mọi khi đúng sai, tốt xấu là do ông Trời phân
định. Bây giờ Đội ở trên cả ông
Trời, thì Đội còn có khả năng phân định
giỏi hơn ông Trời chứ!
Có một cái sức bí
nhiệm không ai lường được, tựa như
những cơn sóng ngầm trong lòng quần chúng, làm vỡ
đê điều lúc nào không hay. Nó như thanh gươm hai
lưỡi, chém người khác, rồi lại quay lại
chém người sử dụng nó, một cách bất
ngờ. Bởi đó mà có những nhà độc tài,
những nhà cầm quyền hét ra lửa, bị quật ngã
lúc nào không biết.
Phong trào Cải cách đang quay
mũi dùi căm thù vào kẻ thù của giai cấp vô
sản, thì không hiểu tại sao mũi dùi căm thù quay
trở lại chĩa vào những người đang lái
nó. Những anh “Đội nhất Trời nhì” hôm nào còn
dương oai tác quái, hùng hổ hơn Trời, miệng
thét ra lửa, thế mà nay bỗng dưng biến đâu
mất, như những bóng ma không ai còn trông thấy.
Những anh cốt cán hôm nào mặt còn rắn như
đanh, tay cứng như sắt, nay cũng nhũn như
con chi chi. Sức mạnh nào đã làm thay đổi
đến thế? Đó chỉ là quy
luật tự nhiên: ác giả ác báo! Nhưng nhà nước
đã đưa ra phương thế để chữa
cháy: chính sách “sửa sai”,
gáo nước lạnh đổ vào nồi nước sôi.
Họ khiêm tốn nhận có sai thật! Đây là những
sai lầm: một số người đưa lên
địa chủ một cách vô lý, phải hạ thành
phần cho họ. Một số khác bị tịch thu nhà
cửa bừa bãi, rồi chia cho người khác, phải
trả lại như cũ. Đại loại sửa sai
là thế. Nhưng các
trường hợp sai sót con số chẳng là bao
đối với những đảo lộn long trời
lở đất và những cái sửa lại đó không
đáng kể đối với một xã hội đã
bị thương tổn đến gốc rễ.
Tuy nhiên các lỗi lầm, theo
thái độ quần chúng, xem ra không phải là về
việc phân định sai ai là địa chủ, hoặc
tịch thu nhầm về ruộng đất. Những sai
lầm phải được xem xét theo thái độ
hờn ghét của quần chúng chĩa mũi dùi vào ai. Không
hiểu tại sao khi vừa nghe nói có việc sửa sai,
thì bọn cán bộ cải cách biến đâu hết.
Họ là ân nhân của người không có ruộng cầy,
thì những người này phải biết ơn những
kẻ đã đem lại ruộng cầy cho mình, và
đáng lẽ phải có một cuộc đại liên hoan,
mừng Cải cách Ruộng đất thành công mới
phải chứ?
Nhưng không, chỉ thấy
dân chúng thay vì cảm ơn và mở tiệc ăn mừng,
họ lại “xuống
đường” đi săn bắt Đội
cải cách “ân nhân”
của mình. Ngược đời! Họ lùng bắt không
phải để đánh đập hoặc giết
chết. Dân chúng bản chất vẫn rất nhân từ.
Họ chỉ tìm để rạch mép, nhẹ nhàng thế
thôi. Sao lại rạch mép? Là vì những môi mép kia đã phun
ra bao là vu khống dối trá, và bắt người lành
cũng phải dối trá như họ, để gây nên
biết bao là chết chóc, đau khổ cho mọi
người, gây nên hận thù giữa làng xóm, mà xưa nay
vẫn sống hiền hoà.
Nhưng bọn cải cách
đã cao chạy xa bay từ đời nào. Họ biết
trước phần thưởng dành cho họ. Rạch mép
nhẹ nhàng, thâm thuý chua cay, nhằm đúng mục tiêu. Không
biết có bao nhiêu tên bị rạch mép? Chúng biến đi,
cái xã hội gian trá chúng gây nên cũng biến đi. Sự
an bình vui tươi lại trở về, y như không có
chuyện gì. Người này người nọ, xóm này thôn
kia lại giao tiếp với nhau, đi lại với nhau.
Đâu đấy lại trở về đời sống
không chỉ như trước Cải cách, mà còn xa hơn
nữa.
Đức Cha Khuê cũng
nhờ việc đi lại dễ dàng mà kinh lý rất
nhiều nơi, từ Hà Nội đến Hà Đông, Hà
Nam, Nam Định. Chẳng phải xin phép, chẳng
phải báo cáo với ai. Không giấy tờ, không gặp
gỡ chính quyền, hoàn toàn tự do....
Lại
bàn về sai lầm. Thiết nghĩ làm gì có thể sai
lầm được! Giả sử chỉ có mình Việt
Nam làm CCRĐ, chưa có đâu làm, thì còn có thể nói
đến sai lầm. Đàng này các bậc thày, các bậc
đàn anh đã làm, đã rút kinh nghiệm, Việt Nam
chỉ việc lặp lại. Người ta đã tính
từ trước sẽ có những sai sót. Có thể nói,
những sai sót cố ý! Thà giết nhầm mười
người còn hơn để sót một! Hoặc kinh nghiệm cho thấy là
việc Cải cách gây đau khổ nhức nhối
chừng nào! Nên giả cách, có vài sửa sai chẳng vào
đâu cả, để phần nào làm nguôi lòng dân. Thực
thế, cấp dưới thấy cấp trên ăn năn
hối lỗi, giả cách hay thực tình, và đưa ra vài
biện pháp lặt vặt, thì cũng cho qua... Dân chúng
dễ nguôi đi, chỉ trừng phạt bằng cách
rạch mép được tên nào thì rạch. Bọn này
cũng dễ rút êm, vì chúng được bố trí
đến không ai biết, đi không ai hay.
Có
hai bức thư rất mạnh mẽ, một cái đâm
thẳng vào quả tim Cải cách, một cái đâm vào
bụng Cải cách.
Đấy là theo như cách đánh giá của những
kẻ cho là mình bị nhầm. Thứ nhất là bức Thư Chung do Đức Cha Giuse
Maria Trịnh Như Khuê, ban bố hồi tháng 2-1956
dịp Tết Nguyên Đán Bính Thân. Ngài dạy luật
căn bản của đạo Phúc Âm: “Thương yêu, tha thứ” trong khi
Cải cách đang khơi dậy ngọn lửa căm thù
giai cấp. Thứ hai là bức Thư
Chung do Đức Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, Giám
mục Bùi Chu, ban bố lúc Cải cách sắp kết
thúc, nói về luật căn bản của Đạo,
đi theo luật căn bản thứ nhất: đó là “công bằng”.
Đối với Cải cách họ hiểu: dù ăn vào
bụng rồi, cũng phải nhả ra. Người ta
gọi đó là “Bức
thư giả của”.
Cứ theo như đánh giá
của Cải cách, thì các tác giả của hai bức
Thư Chung đó phải bị nhân dân băm vằm.
Nhưng các Ngài không bị hề hấn gì. Chung quy chỉ
ngăn cản không cho phổ biến hai bức thư. Cũng chỉ là sự nhịn
nhục khéo léo đấy thôi. Trước hết hai
bức thư đó nói về những điều căn
bản của đạo. Đem ra tranh luận hay xử
lý cách nào đó, thì chỉ lợi cho đạo, mà bất
lợi cho Cải cách. Đàng khác có phổ biến, thì
cũng chỉ là trong giới Công giáo, nhóm thiểu số
giữa đám đông đang sôi sục căm thù và đòi
lấy của. Im đi là thượng sách. Con cái thế
gian khôn ngoan là thế!
Hoàn thành Cải cách
Ruộng đất
Trong
cuốn Biên Niên Sử có nói: “Cuộc
Cải cách Ruộng đất đã hoàn thành, mười
triệu nông dân có ruộng cầy”. Một cuộc
cách mạng long trời lở đất, mà kết quả
có thế thì cũng khiêm tốn. Đó chỉ là cái khiêm tốn giả tạo, sự
thực “kết quả” to lớn hơn vô cùng!
Lấy được
ruộng ở tay người địa chủ, không
phải là việc dễ dàng. Phải có những bàn tay
mạnh mẽ, đi tới tàn bạo của một chính
thể độc tài chuyên chính. Người ta vẫn nói vô
sản chuyên chính mà! Thật ra lấy
lại ruộng đất để chia cho những
người cầy, không phải là mục tiêu chính của
việc Cải cách và chính việc Cải cách cũng không
phải là mục tiêu của Cách mạng. Lấy lại
ruộng đất chỉ là phương tiện
để cải cách, chính việc Cải cách cũng
chỉ là phương tiện cho sự thống trị
của giai cấp vô sản. Nói đúng ra, cho sự
thống trị của Đảng chuyên chính
được thiết lập vững chắc.
Nói Cải cách Ruộng
đất: ruộng đất là cái mồi lôi cuốn
những kẻ không có ruộng tham dự vào cuộc
đấu tranh. Trong tay không một tấc đất, mai
kia sẽ làm chủ, chứ không đi làm thuê, lấy thân
làm trâu ngựa. Nghe thế ai mà không phấn khởi, tích
cực tham gia? Như thế ruộng đất là cái
mồi thúc đẩy việc Cải cách.
Cuộc đấu tranh đòi
ruộng đất là động lực chính, lại còn
được dùng để đánh đổ các thế
lực khác! Trước hết là địa chủ,
phải đánh gục để lấy đất ra! Còn
có những kẻ khác không có ruộng hay có ít chẳng bõ,
nhưng họ uy quyền, uy thế, uy tín trong nông thôn.
Cả những người được vị nể
một cách xứng đáng nhờ đạo đức, nhờ
quảng đại, cũng là những đối
tượng phải đánh gục. Các thành phần này có
thể đông hơn là địa chủ nhiều. Lấy
việc đòi ruộng để chia là cách dễ đi vào
lòng người, hầu đánh vào những thành phần
khác. Như vậy Cải cách Ruộng đất trở
thành phương tiện cho Cách mạng. Vì thế, kết
quả việc CCRĐ không chỉ vẻn vẹn trong tình
trạng mười triệu người có đất
cầy.
Cải cách Ruộng
đất là một cách quét sạch những địa
chủ, những cường hào ác ôn, ác bá, những
người có uy tín, những người có mầm
mống để vươn lên. Tất cả những gì
mà Cách mạng cho là đối nghịch, là nguy hiểm trong
hiện tại và trong tương lai. Quét sạch, để cho xã hội trở nên một
tờ giấy trơn, hầu Đảng muốn vẽ gì
thì vẽ, theo ý mình.
Không
có cái gì gai gai lên, xã hội trở nên mặt bằng,
Đảng muốn đặt hình tượng nào thì
tuỳ ý. Không sợ có hình thể nào lén cài lại. Sao
lại nặn tôi lên như thế? Sao lại đặt
tôi vào chỗ này? Đảng làm vậy để toàn
năng như Ông Trời.
Đó,
kết quả của việc Cải cách là thế, là quét
sạch mọi thế lực bị coi là thù nghịch!
Chứ có phải là lấy mấy triệu mẫu
ruộng, đem chia ra rồi có ngày lại thu về
đâu! Đó là tạo nên một mặt bằng, không gì
gợn lên. Cái gọi là “vô sản chuyên chính” cũng chỉ
là cái áo khoác cho dân nghèo vốn chiếm phần đông trong
xã hội nhìn cho vừa mắt.
Phải chăng đó là trong
chủ nghĩa duy vật?
Đối với chủ
nghĩa duy vật, đem giải thích theo lịch sử
quan, thì xã hội loài người theo cấu trúc hạ
tầng cơ sở và thượng tầng cơ sở
(super-structure). Hạ tầng cơ sở là vật chất
thì bất biến. Thượng tầng cơ sở là trí
tuệ, kiến thức, luân lý, tôn giáo, quyền bính thì thay
đổi. Chính kinh tế làm thay đổi, biến
thể. Thượng tầng cơ sở là nền
tảng của chủ nghĩa duy tâm, bị kinh tế làm
thay đổi. Theo họ, lịch sử thế giới
biến đổi, tiến bộ, không do trí tuệ, do
chiến tranh, do tôn giáo, do phát triển khoa học, nhưng
là do kinh tế chi phối; và họ đưa ra duy vật
sử quan để giải thích những giai đoạn
loài người đang trải qua, từ lúc kinh tế còn
thô sơ cho tới nền kinh tế phức tạp ngày
nay. Chính kinh tế làm thay đổi mọi sự!
Theo chủ nghĩa
Mác-Ănghen, lịch sử thế giới diễn biến
theo nhịp kinh tế, từ đời sống hang
hầm, đẽo đá, cho tới thời đại điện
tử. Kinh tế chi phối tất cả, nó làm thay
đổi cái thượng tầng cơ cấu. Cải
cách Ruộng đất cũng trong đường lối
diễn biến đó. Nó làm thay đổi bộ mặt xã
hội, mà nền tảng là vật chất. Nó là duy vật
nên không chấp nhận cái gì là thiêng liêng. Làm gì có Chúa, có
thánh thần! Có cái gì là linh thiêng cao cả, có cái gì là ở
trên, có cái gì là cái đáng kính đáng trọng, có cái gì
cần nể nang, cần phải bảo tồn đâu! Chủ nghĩa duy vật mù
quáng, chôn vùi mọi thứ xuống đất không chút
thương tiếc.
Vì thế Cải cách Ruộng
đất dựa vào chủ nghĩa duy vật, có thể
đập phá lung tung, không phải kiêng nể bất
cứ cái gì; phong trào
được phát động đến mức con cái có
thể đào mả bố, đấu tố sỉ
nhục cha mẹ. San
bằng tất cả những cái mà các chế độ,
các thời đại trước đã tạo nên,
để xây dựng một thượng tầng cơ
sở mới, không biết nó sẽ là cái gì, vì vật
chất thì mù quáng, làm gì có kim chỉ nam! Sống suy nghĩ
theo Mác-Ănghen thì nó miên man và ảo tưởng
đến thế!
Nhưng nông dân vô sản làm gì
mà biết suy luận như vậy! Người ta bảo
đánh thì đánh, đập phá thì đập phá. Rồi
họ mãn nguyện với mảnh bằng, chứng
thực. Họ
được làm chủ mấy sào ruộng, để
rồi ít lâu nữa sẽ rời những cái ghế
chủ nhân ấy. Bây giờ họ chưa biết
thế đâu!
Tấm bằng được trình bầy
một cách rất lộng lẫy, khổ 60 x 40, có ghi
những chữ lớn với nét đỏ thắm: Giấy chứng nhận
quyền sở hữu ruộng đất! Sau đó là
kê khai những thửa ruộng được làm chủ.
Cuối cùng lại hiện ra những dòng chữ viết
khá lớn, để cho thấy nội dung cũng quan trọng.
Toàn là những khẩu hiệu đã được ghi
đó đây, được để ở cửa
miệng để hô to. Ghi ở đây, chúng lại có ý
nghĩa đặc biệt. Câu đầu là: “Tăng cường đoàn
kết”.
Đoàn kết ở đây,
trong lúc này có ý nghĩa đặc biệt. Học thuyết
Hegel, một trong những nguồn gốc của chủ
nghĩa Mácxít, chủ trương vạn vật hợp tan
tan hợp (Thèse, Antithèse và Synthèse, Chính đề, Phản
đề và Hợp đề). Xã hội chứa
đầy những thực thể (Thèse), nhưng cũng
luôn có những đối kháng (Antithèse) và do cuộc
đấu tranh giữa những thực thể đối
kháng nhau mà đi tới tổng hợp (Synthèse). Tổng
hợp đây không có nghĩa là hợp những cái mâu
thuẫn lại, nhưng là các mâu thuẫn loại trừ
nhau, tạo nên một mặt bằng (Synthèse). Đó chính là
điều mà bản Tuyên Ngôn của Mác nói đến khi
mở đầu: “Hỡi các
bạn vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết
lại”.
Trong Cải cách Ruộng
đất, giới vô sản, tức bần cố nông
đứng sau Đảng, lật đổ không những
giới chủ ruộng, mà còn cả những thực
thể đối nghịch khác, để làm nên một
mặt bằng gồm những người khố rách
như nhau, để rồi trên đó sẽ có những
người có cái khố lành hơn, cái áo sặc sỡ
hơn, làm nẩy nở những mâu thuẫn khác (Antithèse). Đó chỉ là những cái mà
giới chóp bu đưa vào để tìm nguồn
động lực cho hoạt động của mình; còn
dân chúng thì chỉ bị lái, mà nổi dậy một cách vô
ý thức.
Sau cuộc đấu tranh
mệt mỏi, được thưởng bằng
một tờ giấy có ghi: “Giấy chứng nhận
quyền sở hữu ruộng đất” là hể
hả. Nhưng còn phải giữ cái thành quả đó
bằng “tăng cường đoàn kết”, rồi “nâng
cao cảnh giác”. Nâng cao cho
đến lúc ruộng đất được đem
đi dâng, còn lại mảnh bằng, có cất kỹ thì
may ra lâu mới không mục vì nó bằng giấy. Nhưng
cái gì con người tạo nên, nó cũng sẽ mau biến
đi như thân phận con người.
Cải
cách Ruộng đất chỉ là một công cụ mà
Đảng Cộng sản nước nào cũng dùng
để xây dựng và củng cố quyền bính. Nó là
công cụ, nên chỉ là giai đoạn, vì chỉ
được dùng vào một thời nào đó. Những
cảnh rùng rợn nó gây nên, chẳng bao lâu người ta
cũng nguôi đi, hoặc bị làm cho quên lãng.
Khoảng tháng 10 năm 1956,
người ta mời tôi đi họp. Tại sao
người ta lại mời tôi, họp về việc gì
tôi cũng không nhớ! Kỳ cục thay, địa điểm
họp lại chính là trường đào tạo cán bộ
Cải cách Ruộng đất ở thị xã Phủ Lý.
Một khu rộng rãi, gần nhà thờ, có mấy chục
ngôi nhà lợp lá. Thị xã Phủ Lý lúc này do tiêu thổ
kháng chiến đã bị hoang tàn, dân cư thưa thớt,
nhà cửa lụp xụp. Có độ vài trăm
người họp. Có điều khác thường,
chắc trước đây không có: đó là có một ngôi nhà
nguyện, trong đó sáng tối có tiếng đọc kinh
râm ran. Người họp có đủ hạng, thành
thị, nông thôn, đàn bà, đàn ông, người già,
người trẻ... Các bà đọc kinh cầu nguyện
tối sáng, có lẽ là các bà Bùi Chu. Cũng có mấy linh mục khác. Chúng tôi không gặp
nhau, vì không muốn lợi dụng đi họp để
gặp nhau. Chúng tôi không làm lễ dù người ta mời.
Cũng không đến cái gọi là nhà nguyện bao giờ.
Đi họp là đi họp, không làm lễ, và chúng tôi không
mang áo dài thâm, để lấy cớ không có áo dài thâm thì
không làm lễ. Họp ba ngày, ăn ngủ ở đó, phân
chia từng tổ. Tổ bao gồm những người
thuộc tỉnh mình, địa phương mình. Tổ
của tôi gồm các nhân sĩ, bác sĩ, giáo sư, nghĩa
là thành phần “thượng
lưu”.
Không biết có nhiều phiên
họp chung không, và họp về các đề tài gì?
Chỉ biết chúng tôi ngồi với nhau tán chuyện
suốt ngày. Rồi bữa ăn, bữa quà. Tối
đến đi xem diễn kịch, hoặc Xinêma.
Những giải trí đó tôi không đi bao giờ.
Họp sau khi Cải cách,
giữa trường đã đào tạo Đội
cải cách, mà không nói gì tới Cải cách. Không khen, không
chê, không rút kinh nghiệm. Ở dưới mái nhà đã che
nắng mưa cho những người được
huấn luyện để đi gây rùng rợn, sợ hãi
cho kẻ khác. Nằm trên những chiếc giường mà
hôm nào đó, những người cán bộ Cải cách
Ruộng đất đã có những đêm ngủ ngon,
để rồi đi gieo đau thương vào tâm
hồn và thể xác của hàng triệu dân lành.
Ấy thế mà không ai nói
đến chuyện Cải cách. Những lúc ngồi tán
gẫu với nhau, thường người đời
chỉ lấy chuyện “bù
khú” làm đầu. Nhưng chợt thấy tôi
ở gần, họ liếc mắt nhau, rồi lảng
sang chuyện khác, y như nói với nhau: “Ông cố đạo đấy, đừng làm rát
tai ông ta, ông ta cười cho”. Có lần họ
giở chuyện đạo với nhau, và tôi nghe
được.
Chuyện ở miền Nam.
Họ được thông tin đâu đó nói rằng: Toà
Thánh đặt Đức Cha Nguyễn Văn Hiền
ở Sài Gòn, còn Đức Cha Ngô Đình Thục, anh ông
Diệm thì đưa về Huế, và họ khen Toà Thánh
công bằng! Có ý muốn nói: Ông Thục là anh em với ông
Diệm, lẽ thường ông Diệm muốn đặt
người anh của mình ở thủ đô Sài Gòn,
thế mà Toà Thánh lại không nghe, lại đặt ở
Huế, không quan trọng bằng “thủ đô Sài Gòn”. Nghe thì biết
vậy, chứ thực ra lúc này Hà Nội làm gì có những
thông tin như thế, và tôi cũng không tham gia vào câu
chuyện.
Họp
sau ngày Cải cách, họp trong trường đào tạo
cán bộ cải cách, mà không nói gì đến Cải cách,
lại chỉ nói đến chuyện ở đâu. Y
như người ta muốn quên đi những chuyện
về Cải cách. Quên thật! Những ngày họp ở
đây toàn là những ngày “chiêu
đãi” để lấp liếm mọi chuyện. Được đi họp những
buổi như thế này là vinh dự lắm, phải
ở cấp nào, công tác làm sao mới được vinh
dự đó. Không hiểu sao, tôi lại được cái
vinh dự đó!
Đầu năm 1957, tôi
thấy trong mình hơi yếu. Lợi dụng sau Cải
cách, mọi cái dễ dàng, tôi xin lên Hà Nội một tháng
để chữa bệnh. Chữa bệnh thì ít, ý
định khác thì nhiều. Lúc
này nhà nước cho ra cái phong trào “Người Công giáo yêu nước” dưới
danh hiệu “Hội
liên lạc những người Công giáo yêu tổ quốc,
yêu hoà bình”. Ở các nước Cộng
sản khác, họ trắng trợn đưa ra cái thứ
Hội yêu nước như thế để tách khỏi
Vatican. Ở Việt Nam, miền Bắc còn phải
“chiếu cố” miền Nam, nên không dám cho mình tự
trị, nhưng cũng tìm cách đứng ngoài ảnh
hưởng của Vatican.
Về
phía Giáo quyền đã có những tuyên bố, chỉ
thị, biện pháp, chống lại trào lưu này. Ngoài thông cáo thời danh của cha chính Antôn
Đinh Lưu Nhân, Nam Định, về hội Liên lạc
Công giáo đó, tôi cũng muốn đóng góp một phần
nhỏ tích cực hơn. Tôi
thu thập những bài nói về Hội Thánh, soạn thành
một cuốn sách nhỏ, chỉ nói về vẻ
đẹp của Hội Thánh, để cho thấy tách
biệt khỏi Hội Thánh là tách biệt khỏi Chúa Kitô,
tách biệt khỏi Chúa Kitô là tách biệt khỏi Thiên Chúa. Tôi
đã soạn xong nhân dịp đi an dưỡng. Nhờ
ông Tiệp lúc này chưa là ông Cố, mà chỉ là thư ký
làm việc ở hiệu sách Thánh Maria, đánh máy giùm. Dĩ
nhiên là ông đánh máy, trình bầy đẹp hơn tôi. Tôi
đã hoàn thành và định nhờ máy ronêô của Nhà Chung.
Máy này bỏ lâu không dùng được. Tôi xin một ít
giấy của Nhà Chung đưa về Nam Định quay
lấy. Tôi đưa về Nam Định quay ronêô với
một đứa cháu của tôi, để công việc kín
đáo hơn.
Nhắc lại chuyện
đó để cho thấy sau Cải cách, vào thời
kỳ sửa sai, việc đi lại dễ dàng. Việc
xuất bản khó khăn, nhưng việc in ấn còn có
thể kín đáo tiến hành. Nhưng nhất là cho thấy
Giáo Hội Việt Nam còn
phải đối phó gay go với một phong trào khác: “Hội Liên Lạc”,
gay go, phức tạp, dai dẳng hơn là với Cải
cách Ruộng đất.
Ví dụ: Do tình thế đi
lại dễ dàng của thời kỳ sửa sai, vị
Giám mục địa phận, Đức Cha Trịnh
Như Khuê, đi đến cả những xứ thật
xa, ở tỉnh Nam Định, như xứ An Lộc.
Nơi đây cha xứ là cha Vũ Xuân Kỷ, Chủ
tịch Hội Liên lạc Công giáo, hình như đi công tác,
không có mặt. Trong lúc Đức Cha tiếp giáo dân
đứng chật trong nhà, ngoài hiên, ngoài sân, mấy tên Công giáo tiến
bộ, đứng đầu là tên Đượm, tên
Đọc... cứ xô đẩy đám đông, để
xông vào ý kiến với Đức Cha, đoạn xô
đẩy Đức Cha đến chân tường,
rồi ra hiên đằng sau, đến chân cầu thang. May
nhờ cầu thang này mà Đức Cha lên gác thoát nạn!
Khi mọi người trở
lại bình tĩnh, Đức Cha tuyên bố bãi xứ An
Lộc và chuyển sang họ Vạn Điểm. Từ nay
họ Vạn Điểm trong lịch Công giáo
được in là xứ Vạn Điểm. Quyết
định có vẻ vội vàng một chút. Song thấy cha
xứ đứng đầu phong trào chống Giáo hội,
giáo dân không biết bao nhiêu người lại có những
cử chỉ quá khích, thì làm sao tránh khỏi kết luận
như vậy. Xứ này không còn trung thành với Giáo
Hội, nên bãi đi.
Kết luận khác không
thể sai: Những cử chỉ quá khích của một
số giáo dân An Lộc hôm đó đã được hình
thành từ cách lộng hành, tàn bạo của Cải cách Ruộng
đất.
Thành quả của
Cải cách Ruộng đất
Mấy
sào ruộng rồi sẽ đưa vào hợp tác xã
để ông chủ lại đi cầy thuê. Cái bằng
chứng nhận kia chỉ đem vứt vào sọt rác, vì
nó chỉ còn là một tờ giấy vô giá trị. Cảnh
người cầy có ruộng lại lên mây!
Cái bầu trời đã phác
quang, cái mặt đất đã san phẳng lì, muốn
dựng lên cái gì thì dựng. Với tính tàn khốc, tính quá
khích, họ đã tạo nên bầu trời quang và mặt
đất bằng. Tính tình man rợ đó đã in sâu trong
lòng, không biết phải bao nhiêu thế hệ mới xoá
nổi !
Trên tờ “Chứng nhận quyền sở hữu ruộng
đất” có ghi cái khẩu hiệu để
viết trên mặt bằng của Cải cách: “Xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh”. Vẫn chưa thoả
mãn? Đẹp thế mà! Thời kỳ Cải cách mọi
cái thay đổi khá nhiều, theo hướng đi lên hay
đi xuống không ai biết! Cả Đức Cha Khuê
cũng có vẻ đổi thay. Ngài đi kinh lý xứ Nam
Định. Tôi theo Ngài ra thăm Mặt trận Tổ
Quốc. Thay đổi đấy! Ngồi đối
diện với ông Chủ tịch Mặt trận, Ngài chúc
sức khỏe ông Chủ tịch và các nhân viên. Để cập nhật
hơn, Ngài bầy tỏ lòng yêu mến nước VN,
cầu mong nước Việt Nam hạnh phúc.
Ông
Chủ tịch bất cần nhã nhặn, phản ứng
ngay: “Nói Việt Nam thôi
không đủ. Phải
nói là Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”. Tim
Đức Cha không biết có bị nhói không, phần tôi thì
sạm mặt lại. Chúng tôi ngần này tuổi
đầu, học hành gì mà cái tên nước Việt Nam
cũng không nói đúng!
Việt Nam dù là hoà bình, là
thống nhất, là giầu mạnh hay gì đi nữa,
cũng không đủ. Cải cách Ruộng đất không
chỉ đi đến mục tiêu đó, nhưng là
tới cùng đích: VN Xã hội Chủ nghĩa. Xã hội
Chủ nghĩa là gì?
Như
vậy ai cũng hiểu Cải cách Ruộng đất là
sách lược cơ bản, không phải là cái gì tuỳ
tiện. Những phương pháp tàn bạo cũng
chẳng phải là cái gì vượt ra khỏi dự phòng.
Cả những cái gọi là sai lầm cũng là giả
tạo, để lấy cớ sửa sai.
Trước khi Cải cách,
nhiều người hy vọng vinh quang đang đến
với mình, có thể phấn khởi hô lên: “Cải cách muôn năm! Cải
cách muôn năm!”. Sau này, dù có những tai tiếng
đến đâu, những ai nhờ đó mà có chỗ
ăn chỗ đứng, trong thâm tâm vẫn phải vang lên
“Cải cách muôn năm”!!!
(Chúng
tôi có biên tập lại. Người sưu tập)
Hồ Chí Minh, kẻ chịu trách nhiệm chính trong
Cải cách Ruộng đất*
Vũ
Thư Hiên
Trích “Đêm
giữa ban ngày”
Xuất
bản năm 2005 - Chương 12
(*) Đề bài do chúng tôi
đặt. Người sưu tập.
Cha tôi khẳng định
người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra
những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất là
ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh,
như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm.
Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm
của ông Hồ.
Nhưng,
lại cũng công bằng mà nói, ông Hồ không hề có ý
định làm Cải cách ruộng đất trong kháng
chiến chống Pháp. Ông không muốn khuấy động
sự ổn định của chính quyền cách mạng
trong lúc trước mặt là kẻ thù xâm lược. Ông
đã buộc phải làm Cải cách ruộng đất khi
bị Mao nhắc nhở. Trong quyết định này khía
cạnh tâm lý có tầm quan trọng lớn: ông Hồ không
muốn bị vu vạ thêm một lần như ông đã
từng bị vu vạ rằng ông là người không có
lập trường cách mạng kiên quyết.
Như
vậy, Cải cách ruộng đất được
quyết định trong hoàn cảnh có sự thúc ép
mạnh mẽ từ bên ngoài. Nó bắt đầu vào
những năm 1953-1954, khi tình hình các chiến
trường, tình hình trong nước và thế giới
trở nên đặc biệt thuận lợi cho cuộc
kháng chiến chống Pháp, làm cho ông Hồ có cảm giác
chiến thắng cuối cùng đã gần kề.
Những
nhân vật kế cận ông Hồ như Trường
Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Văn Hoan (1), Lê Văn Lương, Hoàng Quốc
Việt… vốn là những mao-ít nòi. Họ vừa thúc bách
ông, vừa hùn vào quyết định còn đang lung lay
của ông. Tuy nhiên, đối với ông Hồ Chí Minh
họ lúc nào cũng giữ tư cách những học trò
khiêm tốn. Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí Minh tổng bí
thư Trường Chinh không có vai trò lớn như
nhiều người lầm tưởng. Trường
Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám,
và cũng không bao giờ được phép tự mình
quyết định những chủ trương lớn.
Vào
giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp,
khi ở vùng tự do Thanh hóa, Nghệ An thuộc Liên khu 4,
cán bộ giảm tô giảm tức kích động nông dân
hành hạ dã man những địa chủ, nói cho đúng là
những nông dân giàu có, cha tôi tức tốc lên Việt
Bắc báo cáo tình hình xảy ra với chủ tịch. Ông
Hồ hốt hoảng hạ lệnh đình chỉ
tức khắc cuộc giảm tô giảm tức
cường đạo và gửi thư xin lỗi
đồng bào.
Ông
đã nghe cha tôi vào thời kỳ ấy, nhưng
đến Cải cách ruộng đất thì ông không nghe
nữa. Lúc ấy ông đã bị các cố vấn Trung
Quốc và những lý thuyết gia mao-ít nội hóa thuyết
phục. Ông nghe làm sao được khi trên báo Nhân Dân ngày
nào cũng tràn ngập tin tức về những thắng
lợi rực rỡ của cuộc cách mạng long
trời lở đất.
Câu
chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại
chủ trương Cải cách ruộng đất, bực
bội vì nó mở màn bằng việc bắn một
người đàn bà, như một số người
muốn bào chữa cho ông là chuyện tầm phào. Một
lệnh ông Hồ ban ra không chỉ cứu một bà
Nguyễn Thị Năm (2), nó còn cứu hàng ngàn người bị
giết oan trong cả CCRĐ lẫn Chỉnh đốn
tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành.
Ông Hồ đã không cứu bà Năm. Ông không cứu ai cho
tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái
nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh
cơn mê. Nhưng đã muộn.
Trong
những ngày u ám đó cha tôi được cử làm bí
thư Ðoàn ủy một đoàn CCRĐ. Là người có
kinh nghiệm vận động quần chúng, ông thấy CCRĐ
đang mắc sai lầm. Nó đi chệch mục tiêu
“người cày có ruộng”, biến thành một cuộc
tàn sát chỉ để tàn sát, một dịch cuồng amok (3) của châu Á. Trong cuộc
đời cách mạng của ông, ông đi nhiều,
tiếp xúc nhiều, ông hiểu đất nước ông,
ông hiểu đồng bào ông. Ông không tin kết luận
của các thầy Tàu nói phàm nông dân giàu có đều là
địa chủ chống cách mạng, chống kháng
chiến. Ông tin ở lòng yêu nước của đồng
bào. Chính những nông dân giàu có, những địa chủ
nhỏ, theo ông, là những người sớm giác ngộ
cách mạng do ý thức được phải tự
giải phóng khỏi thân phận nô lệ hơn lớp
bần cố nông do quá nghèo đói và mù chữ không có
điều kiện tiếp xúc với trí tuệ cách
mạng. Những nông dân giàu đã có công lớn trong
việc nuôi cán bộ, bộ đội trong những ngày
đầu kháng chiến, khi chính quyền cách mạng còn trứng
nước. Không phải sự nghèo khổ làm cho
người ta có ý thức cách mạng. Trong chuyện này
người ta quên hẳn lời những nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác “ý thức cao nhất
của công nhân chỉ là ý thức công đoàn”.
Sự
tráo trở được dựng thành lý thuyết:
những nhà giàu mà người ta gọi bằng các nhà
hằng tâm hằng sản khi cần đến sự giúp
đỡ của họ chỉ là đồng minh giai
đoạn, gọi theo đúng chữ dùng trong các tài
liệu học tập cho cán bộ. Giờ đây, khi cách
mạng đã qua cái giai đoạn cần họ thì họ
bị coi như kẻ thù.
Lại
một lần nữa, cha tôi bỏ công việc về Hà
Nội gặp ông Hồ Chí Minh. Ðang trong cơn đau gan
nặng, ông chống gậy lên Chủ tịch phủ. Ông
nói lớn với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng
chí đã đổ mà Bác còn ngồi yên được à?
Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải
vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì
dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta
không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng
bào, đồng chí!” (4)
Sau
sai lầm Cải cách ruộng đất, ông Hồ và
những người phụ tá luôn bị ám ảnh rằng
mọi người đều lên án họ. Do đó ai nói
đụng tới Cải cách ruộng đất cũng
đều làm cho họ khó chịu. Trường Chinh ngay
trong Cải cách ruộng đất đã phàn nàn rằng cha
tôi giờ bất mãn với Ðảng, trở thành cái loa cho
bọn tư sản, địa chủ. Mà cha tôi bất mãn thật. Ông bất mãn
về nhiều việc làm của Ðảng mà ông cho là không
quân tử, không đạo đức. Ông bất mãn vì nhìn
thấy cuộc cách mạng mà ông tham gia cuối cùng đã
dựng nên một xã hội không tử tế.
Chú
thích
(1)
Một nhân vật cách mạng nổi
tiếng của VN. Sinh năm 1905, ông đến Thái Lan
năm 1928, cùng với ông Hồ Chí Minh lập ra Ðảng
cộng sản Thái Lan, đảng viên chủ yếu là
người Tàu và người Việt. Sau đó ông Hoàng
Văn Hoan đi Trung Quốc, hoạt động ở
nước này trong nhiều năm. Ông bị đưa ra
khỏi Bộ Chính trị và Trung ương Ðảng ở
Ðại hội IV, sau đó bị xử tử hình vắng
mặt khi ông trốn sang Trung Quốc xin cư trú chính
trị. (Tóm)
(2)
Bà Nguyễn Thị Năm là địa
chủ tích cực ủng hộ kháng chiến. Nhà bà ở
huyện Ðồng Hỷ, Thái Nguyên, là nơi các cán bộ cao
cấp thường qua lại, trong đó có cả các ông
Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy
Trinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Giản…
(3)
Những cơn cuồng giết chóc không
kiềm chế nổi bất thần xâm chiếm cả
một bộ lạc, một vùng ở châu Á, khi những
con người như bị mụ mẫm đi khi lao vào
cuộc chiến hỗn độn, giết nhau không vì cái
gì.
(4)
Ông Nguyễn Văn Hoan, phó chánh án Tòa Tối
cao, kể cho tôi nghe chuyện này. Ông đang báo cáo với
Chủ tịch nước về tình hình công tác tư pháp
thì cha tôi chống ba-toong bước vào (ông đang lên
cơn đau gan). Thấy cha tôi quá bực mà to tiếng, ông
Hồ bảo: “Ngồi xuống đã, từ từ nói tôi
nghe, chi mà nóng như lửa vậy”. (Tóm)
Hỏi chuyện nhà văn Vũ Thư
Hiên
về Cải cách Ruộng đất ở
Việt Nam
Phóng viên báo
CE, 2006
http://www.doi-thoai.com/vth_vuthuhien13.html
CE: Vừa qua, một
số tổ chức chính trị tại hải ngoại có
tổ chức kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng
đất ở Việt Nam. Thưa nhà văn Vũ Thư
Hiên, ông có nghĩ rằng đây cũng lại là một
sự ôn nghèo kể khổ theo truyền thống lâu nay
của dân tộc ta không ạ?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Bạn nghĩ rằng "ôn nghèo kể khổ" là
truyền thống của dân tộc ta ư? Thế thì
khổ thật đấy. "Ôn nghèo kể khổ"
chỉ là một cách khêu gợi lòng căm thù của
quần chúng đối với các giai cấp bóc lột, nói
theo cách của cán bộ Cải cách Ruộng đất vào
thập niên 50 của thế kỷ trước. Tôi không
thấy có "một số" tổ chức chính
trị hải ngoại kỷ niệm 50 năm Cải cách
Ruộng đất ở Việt Nam. Tôi biết có một
tổ chức làm chuyện đó là Mạng Lưới Dân
Chủ, dưới đầu đề "Không quên
những nạn nhân Cải cách Ruộng đất",
tại Berlin. Nhưng không nên nghĩ đó là một sự
"ôn nghèo kể khổ" tương đương
với cái "ôn nghèo kể khổ" từng diễn ra
ở nông thôn Việt Nam.
CE: Thưa,
vào cái hồi Cải cách Ruộng đất xảy ra
ấy, ông đã bao nhiêu tuổi, và ông đang làm gì? Ở
đâu?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Hồi ấy tôi mới 20 tuổi. Tôi còn rất ngây thơ
về chính trị. Tôi tin thật ở khẩu hiệu
"người cày (phải) có ruộng", nên phải
làm Cải cách Ruộng đất. Nghĩa là tôi tin ở
sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng cộng sản. Tôi lúc đó làm nghề quay
phim. Tôi làm phụ quay phim cho nhà quay phim Liên Xô Eshurin trong ê-kíp
làm phim "Việt Nam trên đường thắng
lợi" (hay "Việt Nam chiến đấu",
theo tên Nga) của đạo diễn Roman Karmen. Đội
của Eshurin có trách nhiệm quay một đoạn về
Cải cách Ruộng đất tại Thanh Hoá. Cảnh cha
con người nông dân kéo cày thay trâu ngày nay được
coi như ảnh tư liệu trong các bảo tàng Việt
Nam về đời sống nông dân trong thời Pháp
thuộc là do tôi chụp chính trong thời kỳ đó,
ở gần đầm Rủn, Thanh Hoá. Đó là một
cảnh dựng lại để quay phim, không phải
cảnh thật. Hồi ấy tôi thành thật tin rằng
có thể dựng lại các cảnh cũ để
rồi thừa nhận nó là thật, miễn nó giống
thật. Cái đó nằm trong quan niệm của cái gọi
là hiện thực xã hội chủ nghĩa.
CE:
Đã có rất nhiều người
nói về khí thế của nhân dân ta trong những ngày
Cải cách Ruộng đất... Theo ông, cái hừng hực
như lửa ấy ở đâu mà có, tại sao nó duy trì
được và sự duy trì ấy được bao
nhiêu lâu?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Khí
thế hừng hực trong Cải cách Ruộng đất?
Tôi không trực tiếp tham gia cuộc Cải cách Ruộng
đất (khi nó diễn ra tôi đang học ở Moskva),
tôi không làm chứng được cho cái khí thế ấy.
Nhưng tôi tin rằng nó đã có, bằng vào cái mà tôi
thấy trong cuộc giảm tô giảm tức đi
trước Cải cách Ruộng đất từ năm
1953. Người nông dân được (hay bị) tuyên
truyền rằng phải đánh đổ địa
chủ cường hào gian ác thì đời sống của
họ mới khá hơn, thì họ ào ào theo. Ai chẳng
muốn đời sống khá hơn, nhất là trong khi
đời sống hiện tại thì lại quá cay cực?
Đáng buồn là trong khí thế đi tìm cái đời
sống khá hơn người ta quên bẵng nhiều
thứ: đạo đức, tình thương yêu giữa
con người với con người, quyền con người
của người khác... Đảng cộng sản
khuyến khích sự quên đó.
CE: Thưa
nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có được chứng
kiến một cuộc đấu tố nào không?
Người ta đã tiến hành nó như thế nào
vậy?
Nhà văn Vũ Thư Hiên: Tôi
được chứng kiến một cuộc đấu
tố duy nhất. Đó là cuộc đấu địa
chủ Nguyễn Bá Ngọc tại Thanh Hoá. Tôi, với
tư cách người quay phim, tôi được có mặt
ở mọi chỗ. Kể chuyện người ta
tiến hành nó như thế nào thì dài lắm. Tôi nói tóm
lại: nó được bố trí chu đáo như một
vở tuồng. Những người nông dân
được tập đấu (tố cáo tội ác
của địa chủ) nhiều ngày trước khi có
đấu thật. Đến khi đấu thật thì
đấu lưng trước (tức là địa
chủ quay lưng lại người đấu), sau
mới đấu mặt (mặt đối mặt).
Sở dĩ phải làm như thế là vì nhiều khi
người đấu nhìn thấy mặt người
bị đấu thì không nỡ đấu nữa (cũng
là bà con lối xóm với nhau cả!). Đến cả
địa chủ cũng được các đạo diễn
(ông đội) hướng dẫn tỉ mỉ: phải
quỳ thế nào, không được phép ngẩng mặt
lên khi nghe những câu không đúng (các ông bà nông dân bao giờ
cũng đúng, Đảng bao giờ cũng đúng...).
Rất phường tuồng. Buồn cười không
chịu được. Nhưng chỉ dám cười
thầm. Có lẽ ai cũng thấy cái chất buồn
cười trong hoàn cảnh rơi nước mắt
ấy. Nhiều chuyện thương tâm lắm.
CE: Thưa...
Trước, trong và sau cuộc Cải cách Ruộng
đất, ông đã có lần nào, lúc nào được
tiếp xúc với những nạn nhân của nó, và ông
thấy, thái độ, tình cảnh của họ trong
từng giai đoạn như thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Trước hết, tôi xin nói lại điều tôi đã
nói nhiều lần: đảng cộng sản cầm
quyền ở nước nào cũng rất giỏi
sản xuất ra kẻ thù. Trong kháng chiến chống Pháp,
khi chưa có viện trợ của Trung Quốc, bộ
đội sống nhờ dân, mà chủ yếu là những
người nông dân lớp trên, một số sau này
được quy thành địa chủ cường hào
gian ác. Không có họ, bộ đội không có cái ăn
để đánh Pháp. Tôi biết điều đó một
cách chắc chắn bởi lúc ấy tôi ở trong bộ
đội. Tức là đảng cộng sản đã
bịa cho những người nông dân giàu vai trò kẻ thù.
Ngay cả trong trường hợp họ giàu có, họ
cũng không dĩ nhiên phải chống cách mạng giải
phóng dân tộc. Bằng chứng là phần nhiều
đảng viên Quốc dân đảng thuộc tầng
lớp này. Về sau này những kẻ thù do đảng
cộng sản bịa ra rồi có trở thành kẻ thù
thật của Đảng thì cũng đáng lắm.
Tất nhiên, sau CCRĐ tình cảnh địa chủ (hay
những người bị quy là địa chủ) thê
thảm lắm. Đến cả con cái họ cũng
bị trù dập, không cho đi học, không cho đi làm.
Đảng CS thù dai lắm, thù theo sách (chứ người
ta lúc ấy có thù gì Đảng đâu), đã thế
lại còn hẹp hòi đến tởm lợm. Chẳng
cứ con cái địa chủ, con cái tư sản cũng
vậy. Con cái những người bị coi là đối
tượng cách mạng cũng thế. Trong chuyện này
gia đình tôi có kinh nghiệm bản thân. Tốt nhất là
đừng có chơi với một Đảng như
thế. Đã trót bắt tay nó thì nhớ xem lại tay mình
còn mấy ngón.
CE: Người
ta bảo, vào những ngày ấy, có thể thấy bóng dáng
của các cố vấn Trung Quốc ở khắp mọi
nơi... Điều đó có đúng không, thưa ông... Đã
có lúc nào ông có dịp được tiếp xúc với
một trong những ngài cố vấn đó không? Cảm
tưởng của ông về các ngài như thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Điều đó không đúng. Cố vấn Trung Quốc có
ở cấp Trung ương và ở các Đoàn uỷ
Cải cách ruộng đất. Nhưng họ rất ít
lang thang ngoài đường để tìm cà phê. Tôi chưa
gặp họ ở khắp mọi nơi như bạn
hỏi.
CE: Hình
như những người lãnh đạo đảng CSVN
thích dùng mấy chữ cải cách, cải tạo... Sau
cuộc Cải cách Ruộng đất này, theo từng
thời kỳ của cách mạng, họ còn có những
cuộc cải tạo tư sản tư thương
ở miền Bắc và miền Nam, cải cách giáo dục,
cải cách hành chính, cải cách tiền tệ, lương
bổng, cải tạo thanh thiếu niên hư hỏng,
cải tạo gái mãi dâm, cải tạo bọn chích choác xì
ke, ma tuý... và đặc biệt là cuộc cải tạo
hàng triệu sỹ quan và những người đã
phục vụ trong chính quyền Sài Gòn trước 1975, ý
kiến ông về vấn đề này như thế nào?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Những người cộng sản Việt Nam chỉ
thích chữ cải tạo thôi. Mọi thứ cải
tạo: cải tạo tư tưởng, cải tạo
tư sản, cải tạo công thương nghiệp,
tập trung cải tạo... được tiến hành
trong sự chủ động. Còn cải cách thì họ không
thích đâu. Họ cho rằng cải cách không có tính chất
cách mạng, triệt để, một thứ cải
lương. Người ta phải dùng từ cải cách là
khi nào muốn giảm nhẹ trọng lượng chính
trị của câu nói. Hoặc một cái gì đó chưa
đáng để gọi là cải tạo.
CE: Thưa
nhà văn Vũ Thư Hiên! Cuộc trao đổi của
chúng ta đã hơi dài. Vì thời gian không cho phép, nên xin
hỏi ông câu cuối cùng: Xin ông nói một đôi
điều tóm lại về bản chất của
những cái gọi là cải cách, cải tạo ấy?
Nhà văn Vũ Thư Hiên:
Bản chất của cải tạo, cải cách? Nên
chăng dùng chữ mục đích? Mọi hành động
của Đảng cộng sản bao giờ cũng
chỉ nhằm đoạt lấy và giữ cho chặt
chính quyền. Bạn thấy đấy: trong bất
cứ lĩnh vực nào có nảy sinh mâu thuẫn và
đấu tranh thì Đảng cộng sản đặt
ngay vấn đề ai thắng ai? Tất nhiên Đảng
cộng sản phải thắng.
CE: Xin
cảm ơn ông và chúc ông dồi dào sức khoẻ.
Câu chuyện nhà thơ Hữu Loan
12-04-2009
http://thangmomedia.com/page.php?id=3395
Tôi
sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có
cơ may cắp sách đến trường như bọn
trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy
cho dăm chữ bữa có bữa kô ở nhà. Cha tôi tuy là tá
điền nhưng tư chất lại thông minh hơn
người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học
tại Thanh Hóa, không có tiền vào Huế hoặc ra Hà
Nội học. Đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng
đã 22 tuổi- tôi ra Hà Nội thi tú tài, để
chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ
đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định
dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết
thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người
đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm
đến nỗi 5-6 chục năm sau, những
người cùng thời còn nhớ tên những người
đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi,
Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ
Thiện và... tôi, Nguyễn Hữu Loan.
Với
mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa
để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi
của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về
nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham
Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của
của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông
Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu
Quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham
Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi
thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới
được bà để mắt tới.
Bà
tham Kỳ là một người hiền lành, tốt
bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi
chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu
tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc
đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn
bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào thầy
ạ". Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi
mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn
xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi,
theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi
dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ
Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong
ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh,
dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi
mở miệng thì cứ y như một "bà cụ
non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày
một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ
tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ
au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở
vườn. Những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi
ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo
ở góc nhà mang ra giếng giặt...
Có
lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai
người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện
đến tai em, thế là em giận! Suốt một
tuần liền, em nằm lì trong buồn trong, không chịu
học hành... Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng
nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã
nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói
rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi
đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy
ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn
buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi
đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng
ý: "Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi
được đâu". Em không chịu nhất
định đòi đi cho bằng được. Sợ
em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham
Kỳ đưa em lên núi chơi.....
Xe
kéo chừng một giờ mới tới được
chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc,
tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến
đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi
ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi
lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi
ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết
lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi: “Thầy
có thích ăn sim không ?”
Tôi nhìn xuống
sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em
đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi
vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với
chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen
láy chín mọng. “Thầy ăn đi”. Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên
miệng trầm trồ: “Ngọt quá”.
Như
đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim
đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú
thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim
ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết
quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười.
Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ
tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười
phá lên, em cũng cười theo!
Cuối
mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can
ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ,
tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em
theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ
đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nhìn
xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ
bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim
ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi
quay đầu nhìn lại.... em vẫn đứng yên
đó.... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không
còn nhìn thấy em nữa.....
Những
năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn
được tin tức từ quê lên, cho biết em
vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè
kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng
trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao
giờ....
Chín
năm sau, tôi trở lại nhà.... Về Nông Cống tìm em.
Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi
rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn
lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây
không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh
đẹp....
Yêu
nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không
môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này
mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là
do bố mẹ em ngấm ngầm "soạn kịch
bản".
Một
tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo
cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới
trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "Yêu nhau,
thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là
hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay...
lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là
anh chồng độc đáo. Đám cưới
được tổ chức ở ấp Thị Long,
huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em,
nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi
nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai
tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức
tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm
chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên
đường, em vẫn đứng ở đầu
làng, nơi chín năm trước em đã đứng.
Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người
bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi,
rồi quay đầu nhìn lại... Nếu như chín
năm về trước, nhìn lại chỉ thấy
một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật
sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu
xuống.
Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua
đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa
quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp
Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm
áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân
chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em
vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn
lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì
bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm
qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi.
Tôi
phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không
được cho đồng đội biết
để tránh ảnh hưởng đến tinh thần
chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác
không hồn.... Dường như càng kèm nén thì nỗi
đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có
đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm
sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có
thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi
ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi
ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi
đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng
cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ
mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh
đi bộ đội
Những em nàng có em chưa
biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...
...Tôi về không gặp nàng....
Về
viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới
làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc
quạt giấy để lại cho người bạn
ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay
nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài
thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến
đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn
Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở
nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi
gọi là chỗ "quê đẻ của tôi đấy"
thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Em
Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em
bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa
cũng thường nở đầy những bông hoa sim
tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những
đồi sim
Những đồi sim,
những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả
chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều
hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da
diết.
Mất
nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng
chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn
đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính
tôi "hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì
trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê tôi
ủy mị, hoạch họe đủ điều, không
chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của
tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim
của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn
họ quá rồi!
Đó
là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ
bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân văn
Giai phẩm chống chính sách độc tài, đồng
thời chống những kẻ bồi bút đang tâm
lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này
cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn.
Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ
mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình,
có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải
ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi
khóc người vợ tử tế của mình,
người bạn đời hiếm có của mình. Lúc
đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm
riêng.... Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ
rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa
được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi
giặt rồi chết đuối ở sông.... Tôi thấy
đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho
tôi là phản động? Tôi phản động ở
chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại
sao lại không được khóc?
Bọn
họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của
tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu
qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ
quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ,
bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn
bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi
về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn
củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt
giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít,
loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng
bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía
sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không
cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng
cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục.
Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu
cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một
cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu
sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật
với tôi là nó được giao lệnh giết tôi,
nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô
của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho
đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài
Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được
mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi
thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc
Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến
độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định
mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với
một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến
tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là
phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một
nạn nhân của chiến dịch Cải cách Ruộng
đất, đấu tố địa chủ năm
1954-1955.
Lúc
đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi
thấy tận mắt những chuyện đấu
tố. Là người có học, lại có tâm hồn
nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn
hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng
vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia
đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần
năm trăm mẫu tư điền.
Trước
đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và
rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư
đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá
điền gánh gạo đến chỗ đóng quân
để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên
huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên
phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt
của ông, đồng thời đề nghị lên sư
đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi
để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin
gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ
chồng ông bị “đội phóng tay phát động
quần chúng” đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn
xuống đất, chỉ để hở hai cái
đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi
lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia
đình ông bà địa chủ bị xử tử hết,
chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha
chết nhưng bị “đội phóng tay phát động”
đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ
rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm
không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc
thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân
chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm
vợ làm chồng.
Biết
chuyện thảm thương của gia đình ông bà
địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở
về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì
trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn
chưa thể nào quên được hình ảnh của
một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút
đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng
Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc
gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới,
mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những
củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một
củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai
sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước
mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi
thăm và được cô kể lại rành rọt hôm
bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô
khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua
đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang,
cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết
ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi
suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem
cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy
cô làm vợ. Sự
quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc
đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền,
nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói
bữa no... Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10
người con - 6 trai, 4 gái, và cháu nội ngoại hơn 30
đứa!
Trong
mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ
thường, chẳng màng đến thế sự, ngày
ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài
cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc
cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ,
thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi
yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được
ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà văn, tôi chẳng thèm
ra nhập làm gì.
Năm
1988, tôi "tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự
chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió.
Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến
đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng
và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự
do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi
mới thực sự.
Vào
tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004,
công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản
quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu
đồng. Họ bảo đó là một hình thức
bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng
được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ
thuế đi còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10
đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ
lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc
tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau
vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp
đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ
chối, thơ tôi làm ra không phải để bán-/-
Cải cách Ruộng đất qua lời kể
của nhà thơ Hữu Loan
Nhạc sĩ Trịnh
Hưng 14-03-2006
http://www.vietnamexodus.org
Từ
một tình sử đau buồn trong đó người
vợ trẻ bị chết đuối sau đám
cưới có bảy ngày, một anh bộ đội
vệ quốc quân đã kể cho tôi nỗi đau buồn
tê tái của mối tình đầu xuất hồn khỏi
con tim ra thành bài thơ bất hủ. Chính bài thơ đó
đã tạo nên tên tuổi anh. Cô dâu mới vô phúc kia là Lê
Đỗ Thị Ninh. Đại tác phẩm thi ca nói trên
mang nhan đề “Màu tím Hoa sim” thuộc về nhà thơ
Hữu Loan.
Nhà
thơ già kể lại cho tôi nghe tình sử ấy một
cách say sưa với nét mặt hằn vết nhăn
tuổi tác như sống lại với kỷ niệm xa
xưa cách nay nửa thế kỷ, rồi chua chát mỉm
cười hỏi tôi:
-
Thỏa mãn chưa, chú Hưng?
Tôi
trả lời :
-
Thưa anh, em thật thỏa mãn, vì đã hơn năm
mươi năm rồi mới gặp lại anh, lại
được chính anh kể cho nghe về tình sử
đó. Từ trước tới giờ, không riêng em mà
nhiều người từng yêu mến bài thơ “Mầu
tím Hoa sim” cũng chỉ hiểu sơ qua lời tâm sự
chứ không biết cặn kẽ về cuộc tình
tuyệt đẹp mà đau buồn đó. Bây giờ, xin
anh cho em biết thêm một chuyện khác về cuộc
đời riêng của anh từ cuối năm 1952, sau ngày
em về Hà Nội.
Khi
ấy, với chiến thắng Điện Biên Phủ cùng
tái lập hòa bình cho xứ sở, rồi trở về
đến thủ đô, lý do gì mà anh và anh Quang Dũng,
những sĩ quan trung cấp ưu tú và văn nghệ
sĩ nổi danh, lại không được nhà
nước ưu đãi như đối với các
người có công khác. Ngược lại, các anh còn bị
bỏ rơi, gạt ra khỏi giới nhà văn nhà
thơ, bị treo bút và không cho công ăn việc làm.
Đến nỗi anh Quang Dũng từ ngày về thủ
đô chịu đói khổ, không có được một
bữa cơm ăn đơn sơ cho no lòng. Còn anh thì
bị trục xuất về quê và còn bị quản thúc,
không được phép liên hệ với bất cứ ai.
Tại sao lại như vậy, thưa anh?
Thi
sĩ Hữu Loan lại mỉm cười chua chát bảo
tôi;
-
Chú muốn biết, anh sẽ kể rõ hết cho chú nghe.
Chú, anh chị Trạch, và anh Trần Chánh Thành về Hà
Nội, anh nào có hay. Sau đó, anh được anh Quang
Dũng cho biết là anh ấy có đi đưa tiễn
gia đình chú về Hà Nội. Anh bảo Quang Dũng
rằng như thế là may cho anh chị Trạch và anh
Trần Chánh Thành, chứ nếu ở lại hậu
phương thì khổ, vì các anh ấy vốn thuộc
giới trí thức làm quan lại cho Tây hồi xưa.
Đến
cuối năm 1952 đầu năm 1953, chính phủ ta
đi theo đường lối chính sách của Tầu.
Đó là rập theo mô hình đấu tố của Mao
đề ra đang được thi hành bên Tầu. Chúng
gửi cố vấn sang Việt Nam, bắt buộc chính
phủ ta phải thi hành việc đấu tố như
Tầu.
Cố
vấn Tầu đưa Trường Chinh lên làm chủ
tịch và Hoàng Quốc Việt làm phó, bắt đầu
mở màn phát động chiến dịch đấu
tố cái mà chúng gọi là “địa chủ cường
hào”. Tụi cố vấn Tầu chỉ định
đưa bà Nguyễn Thị Năm, tên hiệu là Cát Thành
Long chủ một đồn điền lớn ở Thái
Nguyên ra đấu tố làm điển hình.
Trong
quá khứ, bà Cát Thành Long là một phụ nữ rất
hiền hậu, yêu nước, thương người.
Bà có tiệm ở Hà Nội lấy nhãn hiệu Cát Thành Long
và là một nhà giàu nhất nhì Hà Nội trong thời Pháp
thuộc. Chính bà đã nuôi nấng, giấu giếm trong nhà
nhiều cán bộ Cộng sản, giúp họ khỏi
bị Tây bắt. Trong số cán bộ được bà Cát
Thành Long che chở nuôi ăn có cả Trường Chinh và
Hoàng Quốc Việt. Đến khi Việt Minh có chân trong
Hội đồng Chính phủ, già Hồ ngầm tổ
chức Tuần Lễ Vàng lấy tiền mua súng để
thành lập quân đội thì người ủng hộ
nhiều vàng nhất Hà Nội bấy giờ cũng chính là
bà Cát Thành Long tức Nguyễn Thị Năm.
Rồi
cuối năm 1946 chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Dân
thành phố Hà Nội bỏ nhà bỏ cửa đi tản
cư khắp trong vùng quê tỉnh nhỏ. Bà Năm cùng gia
đình chạy lên Thái Nguyên ở vùng Việt Bắc vì
nơi đó bà có một đồn điền lớn
với nhiều tá điền. Những người này
được bà Năm quý mến, lại tận tình giúp
đỡ khi họ gặp khó khăn, và họ cũng
đều thương mến kính trọng bà.
Vào
những năm đầu của cuộc kháng chiến,
bộ đội phải sống rất vất vả
trong nghèo nàn đói khát. Gạo không có mà ăn cho đủ
no. Thường thường mỗi bữa mỗi
người chỉ được hai miệng bát cơm
gạo mục mốc đầy thóc và sạn. Cho nên,
nhiều khi bộ đội hành quân qua đồn
điền của bà Năm, quân số lên cả tiểu
đoàn. Bà mời họ ở lại, sai người nhà
mổ bò heo, làm gà vịt để bộ đội ăn
no cho có sức ra trận đánh Tây. Vì thế bộ
đội ở Việt Bắc lúc đó ai cũng
thương bà, gọi bà là Mẹ chiến sĩ. Thêm vào
đó, bà có hai con trai đều đi bộ đội.
Người con lớn làm đến sư đoàn
trưởng, người con thứ làm đến trung
đoàn trưởng. Cả hai đánh giặc rất
hăng.
Ấy
thế mà sau này tụi cố vấn Tầu lại bắt
Trường Chinh phải đem bà Năm ra đấu
tố làm điển hình. Tên Trường Chinh quá sợ nên
y theo lệnh. Hoàng Quốc Việt còn chút lương tâm,
viết thư về trình cho HCM hay vì hắn tin rằng
chỉ có già Hồ mới đủ sức can thiệp
cứu mạng cho bà Năm mà thôi. Nhưng không ngờ già
Hồ làm ngơ khi đọc thư tường trình
của hắn, để mặc Trường Chinh mang bà ra
đấu tố cho đến chết. Hai con trai bà
cũng sợ, không dám về hoặc kiếm cách can
thiệp gì cả.
Sau
khi hoàn thành việc đấu tố bà Nguyễn Thị
Năm, bọn họ phát động phong trào đấu
tố toàn tỉnh Thanh Hóa. Từ thành phố đến
huyện xuống tới xã thôn, nơi nào cũng có cán
bộ đến giải thích kích động hô hào.
Biểu ngữ căng đầy đường. Ngày
đêm, họ tụ họp các thanh niên nam nữ, thiếu
niên, nhi đồng, đi thành từng đoàn, hô to
những khẩu hiệu được học thuộc
“Hãy giết sạch lũ địa chủ cường
hào ác bá!” “Đào tận gốc, trốc tận rễ!”
“Cường hào ác bá ra tro!”... Khắp chốn, các
đội cán bộ đến lôi dân chúng ra tuyên truyền
nhồi sọ những lời vu oan giá họa dùng
để áp đặt lên những người bị
đem ra đấu tố. Dân chúng kinh hoảng khi thấy
đội cán bộ vào làng để học tập
việc đấu tố. Quyền hành sinh sát trong tay
họ. Dân chúng sợ quá nói với nhau “Nhất Đội,
nhì Trời”! Đội gieo tang tóc, máu đổ thịt
rơi, gây kinh hoàng, làm cho từng người dân đêm
nằm ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp lo có
người trong đội hoặc du kích rình rập bên
ngoài nghe trộm.
Nhà
thơ ngừng nói, nhấp vài hớp trà, rồi nhìn tôi
đăm đăm kể tiếp :
-
Lúc đó, anh còn là chính trị viên tiểu đoàn. Anh
thấy tận mắt những chuyện đấu
tố. Hơn nữa, mình là người có học, hiểu
biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn
nghệ sĩ, nên anh cảm thấy chán nản quá và không
còn kính trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa
Cộng sản nữa. Tuy nhiên, anh đã trót làm đảng
viên được mấy năm rồi. Thú thật
với chú, lúc đó anh thất vọng vô cùng!
Trong
một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách
xa anh ở độ mười lăm cây số, có
một gia đình địa chủ rất giầu,
nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư
điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân
đạo, rất yêu nước thương
người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301
của anh thiếu ăn, nên ông thường cho tá
điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để
ủng hộ bộ đội. Anh là Trưởng phòng Tuyên
huấn và Chính trị nên phải thay mặt anh em ra cám
ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời
đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao
tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng anh
rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông.
Thế
rồi một hôm anh nghe tin gia đình ông địa chủ
ấy bị đội đấu tố mang cả hai
vợ chồng ra cho dân đấu tố, sỉ vả,
nhục mạ, rồi chôn xuống đất để
hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa
qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia
đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có
một cô con gái mười bảy tuổi được
tha chết nhưng bị đội đấu tố
đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man
hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai
được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm
công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc
lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm
chồng.
Anh
Hữu Loan chớp chớp đôi mắt nhăn nheo có hai
vành mi ướt đỏ đượm mầu
thương cảm. Anh mím miệng, nuốt nước
bọt cho bớt nghẹn cổ, rồi kể tiếp :
-
Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia
đình ông bà địa chủ mà anh hằng nhớ ơn,
anh trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh
sống ra sao, vì trước kia anh cũng biết mặt
cô ta. Lúc gần tới nơi, may sao anh gặp cô ta áo
quần rách mướp, mặt mày lem luốc, đang lom
khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi
áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa
lên miệng gặm. Anh quá xúc động, nước
mắt muốn ứa ra. Anh lại gần hỏi thăm
và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha
mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc
mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi;
hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng,
tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói
khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ
chết vì đói khát!
Anh
nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc
động. Anh bèn đem cô ta về quê của anh, rồi
bất chấp lệnh cấm, anh đã lấy cô ta làm
vợ. Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho anh
mười người con ngoan. Khi xưa, quê anh nghèo, nhà
anh cũng nghèo, anh lại còn ở trong bộ đội
nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố
gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa
đói bữa no.
Sau
khi lấy vợ, anh trở lại đơn vị làm
đơn xin bỏ ngũ và trả lại thẻ
đảng, rồi về quê luôn không chờ cấp trên có
chấp thuận cho anh giải ngũ hay không.
Được một năm, vợ anh sinh cho anh một
cháu trai rất kháu khỉnh.
Năm
1954 Việt Minh thắng thực dân Pháp. Cuối năm
đó, nhà nước bảo Tố Hữu đặt
Nguyễn Đình Thi là một văn nô làm chủ tịch
hội nhà văn miền Bắc Cộng sản, quy tụ
hết nhà văn vào hội. Anh ở dưới quê
nhưng Nguyễn Đình Thi cho mời anh lên Hà Nội
nhận chức tổng thư ký Hội Nhà văn Bắc
Việt. Anh thương vợ con cả năm sống
ở nhà quê với mảnh vườn ba trăm
thước, nên bàn với vợ anh: “Nhân dịp Hội Nhà
văn mời cộng tác, vợ chồng mình lên đó có
lương và tiêu chuẩn gạo cũng đỡ khổ
hơn là ở quê nhà.” Thế là hai vợ chồng thu
xếp lên Hà Nội ngay. Anh thi hành chức vụ tổng
thư ký, được cấp một căn nhà nhỏ,
được lĩnh gạo cho hai vợ chồng và hai
đứa con trai. Hàng tháng, anh còn lĩnh số lương
khiêm tốn để mua thức ăn.
Sau
ít tháng, Tố Hữu ra lệnh cho Nguyễn Đình Thi
tổ chức Đại hội Nhà văn toàn thể
miền Bắc quy tụ tất cả anh chị em văn
nghệ dân sự cũng như quân sự. Tất cả
mọi người kéo về Hà Nội họp mặt
đầy đủ, ai nấy hồ hởi lắm.
Hội
Nhà văn mời hết khách quý trong các ngoại giao
đoàn. Anh được chọn làm thư ký ngày
Đại hội. Cán bộ đảng và nhân viên chính
quyền tới tham dự, có Hồ chủ tịch ra
đọc diễn văn khai mạc cho long trọng. Trong bài
diễn văn, ông Hồ chú trọng nhất đến
trách nhiệm nặng nề của nhà văn lúc đó và
vạch ra đường hướng cho anh chị em nhà
văn đi theo. Tựu trung, ông muốn đưa ra
một chỉ thị...
Nghe
anh Hữu Loan kể đến đây, một ý nghĩ
nảy ra trong đầu, tôi vội giơ tay ngăn anh
lại, rồi ôn tồn nói: “Xin anh vui lòng kể chi
tiết buổi khai mạc Đại hội nhà văn có
ông Hồ chủ tọa”.
Anh
Hữu Loan bóp trán, rồi chậm rãi nói :
-
Lúc ông Hồ ra đọc diễn văn khai mạc, ông cúi
chào và cám ơn các quan khách, cán bộ đảng cùng nhân viên
chính quyền, và các văn nghệ sĩ (mà ông gọi
bằng “các chú”). Đọc xong diễn văn, ông nói thêm:
“Các chú văn nghệ sĩ hãy nghiêm túc học tập
để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình.”
Đoạn ông hỏi: “Ai có ý kiến gì thì cứ mạnh
dạn góp lời để bổ túc thêm. Tôi rất hoan
nghênh.”
Trong
số anh em nghệ sĩ đi họp hôm đó có nhiều
vị thuộc loại nhà văn tiền chiến nhiều
tuổi hơn hoặc bằng tuổi ông Hồ. Thế mà
ông ta cứ ngang nhiên gọi tất cả là “các chú”.
Điều này làm anh nổi tự ái và nóng mắt. Anh
liền giơ tay lên xin góp ý. Ông Hồ thấy anh xung phong
liền đi lại bắt tay anh cười thân mật
nói: “Chú có ý kiến gì đóng góp, cứ tự nhiên phát
biểu để mọi người cùng nghe.” Anh khoanh tay
lễ phép cúi đầu: “Dạ thưa Chủ tịch kính
mến của dân tộc Việt Nam, tôi được
Chủ tịch cho phép đóng góp ý kiến, do vậy tôi xin
mạo muội đưa ra một đề nghị nho
nhỏ thô sơ, nếu có gì sơ suất thất thố
xin Chủ tịch rộng lòng tha thứ cho” - “Không
sao. Chú cứ tự nhiên góp ý.” Già Hồ nói.
“Kính
thưa Chủ tịch kính mến, tôi thật là vui
sướng được chỉ định làm thư ký
trong những ngày Đại hội Văn nghệ toàn
quốc lần thứ nhất. Đại hội này là
biến cố trọng đại sẽ được
ghi vào lịch sử đồng thời cũng là niềm
hãnh diện cho tất cả anh chị em văn nghệ
sĩ khắp nơi được về thủ đô
hội họp gặp mặt cùng nhau học tập
chuẩn bị cho hướng đi ngày mai như lời
dạy bảo của Chủ tịch nói trong bài diễn
văn khai mạc. Vinh dự lớn lao cho anh chị em
văn nghệ sĩ là được Chủ tịch anh
minh kính mến làm chủ tịch danh dự của ngày
Đại hội cũng như đọc diễn văn
khai mạc trước các quan khách ngoại giao đoàn, các
cấp lãnh đạo đảng và nhà nước ta
mới độc lập và có chủ quyền. Để
Chủ tịch giữ trọn vẹn cương vị và
tư thế của một vị lãnh đạo anh minh có
công đuổi được thực dân Pháp giành
độc lập cho quốc gia, tôi xin phép Chủ tịch
góp một ý kiến thô thiển là xin Chủ tịch hãy
gọi các văn nghệ sĩ là “anh chị em văn
nghệ sĩ” thay vì “các chú văn nghệ sĩ”. Bởi vì
đây là ngày trọng đại có đủ quan khách quý hóa
chứ không phải là một buổi họp tọa đàm
thân mật của văn nghệ sĩ. Nếu ở trong
buổi họp thân mật mà Chủ tịch gọi chúng tôi
là “các chú” văn nghệ sĩ thì anh chị em sẽ vui
lắm vì đó là lời thân mật của gia đình
văn nghệ.”
Nói
xong, anh lễ phép cúi đầu chào Chủ tịch và các
quan khách cùng văn nghệ sĩ ngồi dưới. Anh
nghe có một vài tiếng vỗ tay. Liền đó, ông
Hồ tiến lại bắt tay rồi ôm lấy anh
với nụ cười rất xã giao của nhà chính
trị. Ông nói: “Tôi thành thật khen chú đã góp ý hay cho tôi.
Tôi xin ghi nhận.” Nói xong, để tỏ ra mình là
người trên biết ghi nhận lời kẻ
dưới, ông Hồ quay lại nói với văn nghệ
sĩ cùng quan khách bên dưới: “Kính thưa văn
nghệ sĩ, tôi xin thành thật ngợi khen lời góp ý
của nhà thơ Hữu Loan, và bây giờ xin anh em ai có ý
kiến gì hay cứ việc mạnh dạn lên đây phát
biểu. Chúng ta là văn nghệ sĩ cần phải nói
thẳng nói thật để sáng tác phục vụ cho nhân
dân.”
Anh
đi xuống bàn thư ký. Khi bước ngang qua hàng
ghế đầu, anh liếc nhìn thấy Tố Hữu và
Ng. Đình Thi mặt lạnh như tiền, hai cặp
mắt nhìn anh không một tí thiện cảm. Anh biết hai
ông thầy của anh rất ghét và tức anh, nhưng anh
làm lơ về chỗ ngồi tiếp tục nhiệm
vụ của mình.
Tiếp
theo đó, là phần thảo luận các đề tài trong
bài diễn văn của ông Hồ nêu ra. Đến
mười hai giờ, mọi người nghỉ đi
ăn, chờ buổi chiều bàn tiếp. Anh cũng
rời chỗ đi ăn cơm. Khi ra phòng ngoài, nhiều bạn
bè xúm lại bắt tay anh ôm anh và tỏ lời khen ngợi
anh can đảm nêu ý kiến rất hay. Tuy nhiên, một
số đông nhìn anh bằng cặp mắt không những
tỏ ra thiếu thiện cảm mà còn khinh khi nữa. Trong
số bạn bè yêu mến và ca ngợi anh, có một anh
bạn vỗ vai anh bảo nhỏ: “Cậu hay lắm!
Nhưng hãy giữ mình thận trọng đó!”
Có những
chuyện khác
ông
đội Bối chưa kể
Nguyễn
Trọng Tân 6-1-2007
http://www.talawas.org
Nhà văn Tô Hoài sinh năm 1920,
cùng tuổi với bố tôi. Thời kỳ Cải cách
Ruộng đất, nhà văn Tô Hoài, ông đội Tô Hoài
đã 33–34; cái tuổi từng trải, cái tuổi ở
đỉnh thăng hoa của sức lực, trí tuệ. Là
đội phó đội cải cách, chánh tòa án đội Cải
cách Ruộng đất, nhà văn Tô Hoài viết Ba
người khác trong thế thượng phong của
người trong cuộc, kể những điều trong
ký ức, những sự thật lịch sử về
một thời kỳ "đặc biệt" trong
tiến trình cách mạng Việt Nam – mà lâu nay chẳng ai
cấm mà vẫn như cấm viết, cấm nói về nó
– thời kỳ tiến hành công cuộc Cải cách
Ruộng đất đầy hùng hổ, ngây thơ và
cũng để lại bao nhiêu oan nghiệt, kinh hoàng cho
nhiều vùng nông thôn miền Bắc VN. Song dường
như chưa có một tác phẩm văn học nào nói
đích về nó. Ba người khác đã làm việc
này. Ở đây tôi thực sự cảm phục cách
lựa chọn chi tiết, dẫn dụ câu chuyện làm
cho người đọc cảm nhận những câu chuyện
cũ một cách đầy mới mẻ, hứng
khởi. Ba người khác hấp dẫn, mông lung,
lãng mạn, tò mò, khám phá... nó là tiểu thuyết, nó là
hồi ký và nó cũng là sử ký.
Có thể người khác không
đồng ý với nỗi hân hoan quá đỗi của
tôi, nhưng thực lòng tôi ngốn ngấu nó trong bốn
giờ liên tục với một tâm trạng bới tìm
những lời giải về một thời mà chính tôi
cũng là một thằng Vó thằng Cò con bác trưởng
thôn Diệc trong Ba người khác. Một lũ
trẻ ranh quần thủng đít, thò lò mũi xanh rồng
rắn bám đít ông đội Bối đi xem đấu
tố địa chủ.
Hôm nay, nhà văn Tô Hoài, ông
đội Tô Hoài bước vào tuổi 87, thì tôi cũng
bước vào tuổi 60, vẫn ôm trong lòng một mớ
hiểu biết hổ lốn, những kỷ niệm
đau buồn, uất ức của một đứa bé
lên 7 tuổi bị vò cuốn trong cơn gió độc
địa của Cải cách Ruộng đất ở quê
tôi. 7 tuổi nhưng tôi phải khôn trước tuổi vì
cuộc sống nghèo túng lam lũ. Tôi như tờ giấy
trắng tinh bị Cải cách Ruộng đất hất
một chậu mực đủ gam màu. Thậm chí 7
tuổi tôi đã biết phản ứng, yêu ghét, ngấm
ngầm những điều sai đúng của người
lớn. Với tôi đó là thời kỳ trái khoáy điêu
hớt, nó xăm trổ vào ký ức, tình cảm tôi
những điều méo mó không xóa đi được.
Bố tôi là đảng viên CS,
chủ tịch lâm thời UB Hành chính Kháng chiến xã. Sau
Kháng chiến toàn quốc, ông thoát ly thành bộ đội
chủ lực tham gia chiến dịch Điện Biên
Phủ. Mẹ tôi một người đàn bà mù chữ,
ở nhà làm ruộng nuôi con. Thằng em tôi ba tuổi lúc Cải
cách, nó bé quá. Nhà tôi nghèo đến độ, trước
đó giặc Pháp đốt làng, chỉ còn sót lại có
một vì kèo. Phải gác nhờ cây cái móc vào vì kèo nhà bên
cạnh mới lợp được hai mái rạ che
nắng mưa. Mãi rồi bố tôi mới dựng
được một túp nhà riêng giữa vườn
chuối cho ba mẹ con trước khi ông đi thoát ly. Ngày
Đội cải cách về, chẳng hiểu cơn
cớ làm sao mẹ tôi bị quy là cường hào ác bá (dây
mơ dễ má đâu là chỗ ông nội tôi từng làm chân
lý trưởng. Ông tôi mất năm 1933, trước ngày
Đội cải cách về đúng 20 năm. Đời
bố tôi đã là 1 bần cố nghèo rớt mồng
tơi, đi theo cách mạng).
Đang là con nít mải ăn
mải chơi với trẻ con hàng xóm, lúc rủ nhau chui
rào hái trộm ổi xanh, khi lang thang đúc dế ở chân
đê, rồi đánh nhau lôi tên cái bố mẹ nhau ra mà
chửi dọc đê làng... đùng một cái mẹ lôi hai
anh em tôi xuống cái ổ rạ cạnh bếp vừa khóc
vừa bảo (cái đũa bếp cháy vẹt một
đầu đập đập theo tiếng thổn
thức): "Bầm dặn thằng Tân từ hôm nay
phải ngồi đóng gông ở nhà trông em. Không
được đi chơi đi học nữa. Nếu
gặp đám bạn con nhà hàng xóm thì phải khoanh tay chào
bằng ông bà và xưng là con..."
Tôi phụng phịu phản
ứng. Mẹ tôi giang tay tát một cái trời giáng vào
mặt khiến hai mắt tôi nổ hoa cà hoa cải.
Liền đấy bà ôm hai anh em tôi khóc như mưa như
gió nói những điều mà tôi không hiểu: "Nhà ta
từ nay là gia đình thành phần rồi con ơi..."
Mãi sau này tôi mới biết
phần nào nỗi oan ức nhục nhã mà bà phải
chịu. Cái tát vào mặt tôi cũng thể hiện sự
cứng cỏi bà phải có để vượt qua
những tháng ngày kinh khiếp và phi lý ấy. Mẹ tôi
lấy bố tôi được hơn một năm thì
nổ ra cướp chính quyền. Bố tôi hoạt
động bí mật, thỉnh thoảng lại cùng các
đồng chí của ông đem súng đạn, lựu
đạn về cùng mẹ tôi chôn giấu xuống bên
dưới các gốc chuối trong vườn nhà. Khi
đủ chuyến các ông áp thuyền vào bến sông ngoài
đê, đào vũ khí rồi chuyển lên chiến khu Vạn
Thắng (vùng Hạ Hòa, Phú Thọ ngày nay). Chuyện lớn
thế mà cứ kín nhẹm. Năm 1945 giặc Nhật
chiếm làng tôi. Chúng bắt dân ra sân đình, thằng quan
Nhật giơ cao thanh kiếm bảo là kiếm thần,
chỉ cần cắm xuống đất nhà ai sẽ
biết có chôn giấu vũ khí hay không. Ai có vũ khí đem
nộp được thưởng. Ai cố tình chôn
giấu, chúng sẽ chém cả nhà. Mẹ tôi thao thức
trắng hai đêm. Chuyện kiếm thần khiến bà lo
lắng bồn chồn. Chồng không thấy về. Ngoài
vườn vẫn còn mấy hố đạn chưa
đem đi hết. Đêm thứ ba bà lẳng lặng
trở dậy, đào từng hố cho vào đôi thùng gánh
nước bằng gỗ đem ra sông đổ. May
thế nào mới đổ được hai chuyến thì
bố tôi về. Ông nhào xuống sông mò lại và đem
hết số vũ khí trong vườn đi. Mẹ tôi
bảo, nhìn đứa con đỏ hỏn – ấy là anh
cả tôi nhưng sau này không nuôi được – nghĩ
đến lời thằng sĩ quan Nhật bà chẳng
biết phải làm thế nào. Thôi gà mái giữ lấy cái
ổ đã. Chuyện ấy may mà sau này Đội cải
cách không biết.
Là cường hào ác bá nhưng
nhà tôi chẳng đủ gạo ăn. Đã thế còn
lại cấm quan hệ với anh em, họ hàng chòm xóm.
Đó là nỗi nhục, nỗi uất lớn nhất
của mẹ tôi. Bữa cơm chỉ có sắn khô meo
mốc luộc lên nhai, nhiều bữa ăn cháo củ chuối...
Đêm nào mẹ tôi cũng giật mình thon thót khi
bước chân tuần tra của dân quân nện phía ngoài
hàng rào. Nhưng cũng có những tiếng động làm
giật mình mà bà chờ đợi. Ấy là bà ngoại tôi,
các dì tôi biết ba mẹ con tôi đói nên thỉnh thoảng
lại gói khoai lang, bắp ngô, túm gạo... nhằm lúc không
có người ném bụp vào trong vườn. Bần cố
nông cứ tiếp tế lương thực cho
cường hào mấy tháng liền mà không ai biết.
Với tôi ngoài nỗi khổ
của mẹ, có lẽ in đậm nhất là trò đám
cán bộ Đội cải cách nghĩ ra để phá
hoại nhà tôi. Ngoài mấy thước ruộng trồng
lúa, nhà tôi còn có một cây hồng không hạt rất ngon,
giống hồng Hạc Trì. Cây hồng cổ thụ xum xuê
che rợp bóng xuống cả đoạn đê
trước nhà. Mùa quả mẹ tôi hái, ngâm vào một dãy
nồi đình. Khi ăn được bà đem cho hàng xóm
mỗi nhà vài quả, còn thì gánh sang chợ Nhông bên Trung Hà
bán. Nhìn trước ngó sau thấy gia đình tôi không có cái gì
đáng giá để tịch thu, chia quả thực, cán
bộ Th., một tên lưu manh mạt hạng, chuyên sờ
sẩm quả trứng buồng chuối của xóm
giềng được Đội cải cách xâu chuỗi
thành rễ cốt cán nghĩ ra trò rất ma bùn. Hắn làm
hai cái cán cờ thật dài, cho hai tay dân quân cầm đi
đầu đoàn mít tinh, đến ngang cây hồng nhà tôi
hắn giơ thật cao. Cành hồng nào chạm vào cờ
cách mạng hắn hô dân quân lên chặt. Cây hồng quý duy
nhất của làng tôi bị chém xơ xác và năm đó nó
chết. Bao nhiêu người tìm cách chiết cành, ươm
rễ nhưng đều không sống được.
Cũng hôm ấy, thấy người đi mít-tinh vui quá,
hùng dũng quá, tôi quên thân phận mình, quên lời mẹ
dặn, chui rào trốn ra cùng đám bạn bám quanh cán
cờ. Mắt tôi cũng long lanh kích động, cũng
nắm tay thụi ngược miệng hô: "Đả
đảo bọn địa chủ cường hào ác
bá"; "Đào tận củ trốc tận rễ
bọn trí phú địa hào...". Chợt rễ Th. nhìn
thấy tôi. Hắn túm gáy, bẹo tai tôi vặn
ngược, lôi xềnh xệch ra mép đê, đạp
một cú chí mạng vào ngực tôi miệng chửi:
"Đ. mẹ thằng cường hào con. Ai cho mày mó vào
cờ cách mạng hả". Tôi lộn mấy vòng
xuống chân đê, trong lòng vừa hoảng sợ vừa
uất ức cực độ. Từ hôm ấy tôi cũng
công khai chửi vào mặt bọn con nhà nông dân: "Ông
đút b... vào chơi với chúng bay nữa. Ông chỉ
chơi với thằng Vựng thằng Khàng thôi".
Thằng Vựng con nhà phú nông, thằng Khàng con nhà
địa chủ... Đám cường hào, địa
chủ con chúng tôi đành tha thẩn chơi với nhau.
Nói cho cùng thì làng tôi bé teo heo,
chỉ biết sống bằng nghề trồng lúa,
chẳng có ai đáng mặt để gọi là địa
chủ giàu có. Đội cải cách về thấy bảo
tìm mãi mới được vài nhà dư dật hơn, ngày
xưa ông cha có dính dấp tí hàm sắc, đôn lên làm thành
phần bóc lột. Không có địa chủ nào đáng
bị bắn. Chỉ có hai địa chủ bị đem
ra đấu tố giữa chợ, tôi nhớ rất lâu
chuyện bà địa chủ Oanh, chính thằng cháu
khốn nạn lên xỉa xói, nhổ nước bọt vào
mặt bà, giật dứt cái mấm vàng trên tai bà và vu
những chuyện không đâu. Còn lại vài nhà bị
gọi là cường hào, phú nông như mẹ tôi hình như
cho đủ tiêu chuẩn quy định. Các cụ trong làng
tôi bây giờ vẫn kể cái cảnh quy địa
chủ mà cứ như trò đùa. Đội cải cách
tập hợp người lại bảo đấu
tố, kể khổ truy bức. Có bà Tý toét ở thôn Cao
bị quy địa chủ. Nghe thấy tên mình bà ta còn
đứng dậy cám ơn rồi từ chối: "Nhà
cháu một chữ cắn đôi không biết, lại neo
lắm, cháu không làm địa chủ được
đâu, cháu xin nhường anh thẽm Cửu..."
Đại loại cách hiểu về địa chủ
cường hào vùng tôi là thế. Đội Cải cách
Ruộng đất về làng như một cơn gió
độc, cuốn lộn tùng phèo mấy chục nóc nhà
giống như mấy chục cái đụn rạ của
thôn tôi lên. Mãi sau này khi trưởng thành, tôi mới thấy
sự tác hại ghê gớm của nó còn di họa
đến tận ngày nay, đó là sự phá vỡ cái
kết cấu chặt chẽ của nông thôn Việt Nam,
những mối quan hệ tốt đẹp, tương
thân tương ái, hợp lý hợp tình của mỗi
quần thể sống, như người xưa vẫn
dạy: xóm giềng "sớm lửa tối đèn"
có nhau. Nguy hại hơn nó còn phá vỡ nếp sống
tốt đẹp tôn ti trật tự có trên có dưới,
cái hạt nhân làm nên tinh hoa văn hóa của mỗi dân
tộc, đó là gia đình, cũng như triệt hạ
không ít những con người tinh hoa nhất, giỏi giang
nhất trong mỗi làng xóm. Và cũng chỉ từ Cải
cách Ruộng đất các cụ bảo mới có
chuyện con cháu hỗn hào với ông bà cha mẹ, mới có
chuyện con chửi cha, vợ lộn chồng như
thế.
Rồi cũng sửa sai.
Mẹ tôi xuống hàng bần nông. Cái hôm được
"giáng chức" ấy, bà lại khóc một trận
tơi bời. Khóc như rũ đi cái gánh đời ô
nhục vơ với quàng vào cổ bà. Chẳng bóc lột
ai, chẳng ân oán với ai nên mối quan hệ cũ
cũng bình tâm trở lại. Chỉ có tôi là vẫn ngang
bướng. Tôi nhìn đám con cái nông dân với ánh mắt
khinh bạc. Tôi tìm đủ cớ để gây sự
với chúng. Bố tôi nhận ra sự tổn thương
trong tình cảm của tôi, sự méo mó trong tuổi thơ
tôi nên ông đưa tôi về sống ở Hà Nội
để cắt đứt với những ám ảnh
cũ. Lúc ấy ông đang được giao phụ trách
các rạp chiếu bóng Hà Nội của chi nhánh điện
ảnh I, chỗ ở chính là 59 phố Cửa Nam, ngay trong
rạp chiếu bóng Kinh Đô. Tôi bắt đầu đi
học lớp 1 ở trường Lý Thường
Kiệt, phố Sinh Từ. Hôm nhập học, bố
mẹ tôi cùng đưa đi, tôi chưa quen đi dép,
cứ chân đất tôi chen lấn làm dạt đám
cậu ấm cô chiêu thơm tho Hà Nội để leo lên
ban công tầng hai, ngang với ngọn cây xoan ở quê. Tôi
thò đầu ra vẫy tay, rối rít gọi toáng lên:
“Bầm ơi. Em ở đây mà!”
Cái khăn mỏ quạ
của bầm tôi ngúc ngoắc lo tôi ngã. Còn ánh mắt
ngạc nhiên và khinh bỉ của đám học trò Hà
Nội cũng không làm tôi bớt vui vì một mảng
cuộc đời khác đã đến sau những ngày
Cải cách Ruộng đất đầy tối tăm.
Cho đến tận bây
giờ tôi chỉ hiểu Cải cách Ruộng đất
một cách lõm bõm, thật hư, đậm nhạt như
thế. Ba người khác giống như một
bộ phim có đầu có cuối giúp tôi giải nghĩa,
lắp ghép, xâu chuỗi những mảng còn thiếu,
những chỗ đứt đoạn, mờ ảo trong
cái ký ức còn quá non dại thời ấy. Háo hức tìm
đọc Ba người khác như tìm lại hình bóng
của chính mình, những câu chuyện, hoàn cảnh giống
gia đình mình. Thì ra ở đâu cũng vậy, cũng có
chuyện nhốn nháo, hàm oan, cũng đĩ bợm,
khốn nạn.
Còn cánh cán bộ đội,
những chuỗi, rễ cơ hội lưu manh ở thôn
tôi sau này cũng không thấy ai thành người tử tế.
Riêng tay đội Xuấn gian ác nhất, người già
làng tôi vẫn kể rằng vào một đêm tối
trời hắn bị ai đó giết chết treo lên cành
gạo cạnh ủy ban xã. Hạ bộ bị cắt, cái
của quý nhét vào miệng. Chẳng biết đúng sai
đến đâu nhưng rất nhiều thôn khác trong xã
cũng nhận hắn là ông Đội của thôn mình – tôi
đã lấy những chi tiết này đưa vào truyện
ngắn "Trang gia phả viết bằng vôi" – còn bao
nhiêu điều nữa người làng đồn thổi
về các ông đội Cải cách Ruộng đất,
tất cả đều kèm theo tiếng thở dài, ai oán.
Nguồn:
Phát biểu tại Tọa
đàm về tiểu thuyết Ba Người Khác của nhà văn Tô Hoài do
Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức ngày 22-12-2006
III- DƯỚI MẮT NHỮNG KẺ
CHỦ XƯỚNG VÀ THI HÀNH
Nhận xét về Cải cách
Ruộng đất đợt 5
Hồ
Viết Thắng
http://www.talawas.org
Đợt
5 Cải cách Ruộng đất là đợt to nhất
từ trước tới nay. Xét về nhiệm vụ và
tác dụng của nó, thì như Trung ương Đảng
và Chính phủ (CP) đã nhận định, nó là chiến
dịch Điện Biên Phủ chống phong kiến ở
miền Bắc. Đối chiếu với các đợt
trước, có thể nói đợt này rộng lớn
hơn những đợt ấy gộp lại.
Đợt 5 bao trùm một vùng
rộng lớn, phức tạp và quan trọng: hầu
khắp đồng bằng miền Bắc, gần
suốt bờ biển, quanh các thành phố lớn, dọc
các đường giao thông chính, khu giới tuyến
tạm thời, các vùng tập trung đồng bào công giáo,
một vài nơi (thuộc Liên khu 4) có cả đồng bào
dân tộc thiểu số. Vùng Cải cách Ruộng
đất đợt 5 phần lớn lại là vùng
trước bị địch chiếm.
Mặt khác, đợt này làm
trong những điều kiện chính trị phức
tạp và khẩn trương. Đế quốc Mỹ và
tay sai của chúng thì tăng cường khủng bố
ở miền Nam đồng thời tìm mọi cách phá
hoại công cuộc Cải cách Ruộng đất và khôi
phục kinh tế, phát triển văn hóa của
nước ta ở miền Bắc, hòng ngăn cản
việc thống nhất nước ta. Còn ta thì phải xúc
tiến thực hiện kế hoạch Nhà nước
năm 1956, củng cố quốc phòng, gìn giữ an ninh
nhằm củng cố miền Bắc, tranh thủ miền
Nam, giữ vững hòa bình và tiến lên thống nhất
nước nhà.
Sau hơn 5 tháng tiến hành
đấu tranh khẩn trương và gian khổ, chúng ta có
thể nó rằng Cải cách Ruộng đất
đợt 5 đã giành được thắng lợi to
lớn và căn bản, đồng thời cũng đã
phạm những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng.
Thắng lợi to lớn và căn
bản
Trong thời gian qua, ta đã
phát động được một phong trào nông dân
mạnh mẽ. Hơn 6 triệu nông dân lao động,
tức là non nửa dân số miền Bắc, đã thoát
cảnh lầm than, họ đã giành lại
được ruộng đất, đã vươn mình,
đã thật sự làm chủ nông thôn. Dinh lũy cuối
cùng, kiên cố nhất của thế lực phong kiến
ở miền Bắc, một chỗ dựa của
đế quốc Mỹ và của bọn phản
động miền Nam, đã bị đập tan. Quan
hệ sản xuất phong kiến trước đây ràng
buộc nông thôn miền Bắc đã bị phá bỏ,
mở đường cho nông thôn ta tiến lên. Giải
phóng một lực lượng lao động và cách
mạng to lớn như vậy, đánh đổ một
thế lực hủ bại và phản động như
vậy, thật là một thắng lợi to lớn!
Tuy sai lầm và thiếu sót
trong đợt 5 thật nghiêm trọng, nó đã hạn
chế khá nhiều tác dụng của những thắng
lợi đã giành được, nhưng nó không thể
phủ nhận thắng lợi ấy. Chúng ta hãy xét về
các mặt.
Trong đợt 5, phát
động quần chúng nông dân được như
thế nào? Đợt này, do ảnh hưởng của
những đợt trước, nói chung quần chúng
đều thiết tha mong đợi CCRĐ. Khổ
nhiều, thù sâu, họ đòi hỏi đánh đổ
bọn địa chủ và bọn phá hoại đã bóc
lột và đàn áp họ. Họ muốn có ruộng và khao
khát tự do. Nhưng đồng thời họ cũng có
rất nhiều lo lắng. Sau bao nhiêu năm chiến tranh
tàn phá, nay lại bị thiên tai liên tiếp và những
sự phá hoại của địch, đời sống
của họ còn nhiều khó khăn chật vật, họ
rất lo về sinh kế trước mắt. Đối
với các chính sách của Đảng và CP, vì không phổ
biến sâu rộng trong nhân dân và vì địch cố xuyên
tạc phá hoại, nên quần chúng cũng có nhiều
thắc mắc. Đồng bào Công giáo thì lo “mất cha,
mất đạo”. Người trước đi ngụy
quân, làm ngụy quyền, hoặc có tên trong các tổ
chức khác của địch, thì sợ bị trừng
trị. Nhà có người đi Nam sợ “bị liên
lụy”. Rất nhiều người sợ bị “liên
quan” với địa chủ, đế quốc và
phản động. Địch lại ra sức uy
hiếp và mua chuộc, do đó trong quần chúng có nhiều
người sợ địch. Trong tình hình ấy, làm
thế nào phát động được tư
tưởng của quần chúng, khiến họ tự
nguyện, tự giác tổ chức nhau lại, vùng lên
đấu tranh kiên quyết, đó là một khó khăn
lớn mà ta đã khắc phục được.
Đương nhiên, trong đợt này còn nhiều
người chưa được phát động
đầy đủ; có lúc, do địch phá và do ta làm sai,
nhiều nơi quần chúng đã hoang mang, kém đoàn
kết. Nhưng nói chung quần chúng nông dân đã thật
sự vươn mình mạnh mẽ.
Về mặt đánh
đổ giai cấp địa chủ và trừng trị
bọn phá hoại hiện hành, ta cũng thu được
những thành tích đáng kể. Khi mở đầu
đợt 5, ở hầu hết địa bàn của
đợt, thế lực giai cấp địa chủ còn
khá mạnh. Nhất là ở 640 xã chưa qua giảm tô, uy
quyền của chúng chưa hề bị đả kích.
Trong chiến tranh, chúng đã giết, cướp, phá và bóc
lột nông dân vô cùng tàn khốc. Có những tên như
Nguyễn Đức Chiêm (Thái Bình) đã tự tay giết,
bố trí giết và làm bị thương 98 người,
tên Nguyễn Văn Đức (Thái Bình) chiếm hữu
ruộng đất trên phạm vi 17 xã thuộc 4 huyện.
Đến Cải cách Ruộng đất, chúng càng ráo
riết phá hoại. Phá hoại của chúng phần
nhiều đều có chuẩn bị, có tổ chức.
Tính chất trắng trợn và thâm hiểm cũng nặng
hơn các đợt trước: giết người,
đốt nhà, phá của, bố trí tay chân, giả tạo
tổ chức, bày đặt vụ án, tuyên truyền xuyên tạc,
lôi kéo nông dân vào vòng tội ác, v.v… Đợt này, cán bộ
ta bị hy sinh đến 18 đồng chí. Trong tình hình
ấy, tìm ra và đánh đổ được giai cấp
địa chủ, và trừng trị được
bọn phá hoại hiện hành, cũng là một khó khăn
lớn mà ta đã khắc phục được. Trong
đợt này cũng còn để lọt một số
địa chủ; có nơi quy sai một số
người thành địa chủ; việc phân hóa giai
cấp địa chủ ở một số nơi không
được chú trọng. Nhưng nói chung, giai cấp
địa chủ đã bị vạch mặt, uy thế
của chúng đã bị đập tan. Bọn cường
hào gian ác và bọn đầu sỏ phá hoại hiện hành
bị trừng trị đích đáng.
Trên cơ sở phát
động quần chúng, đánh đổ địa
chủ, trừng trị bọn phá hoại hiện hành, các
việc chia ruộng đất, thực hiện kế
hoạch Nhà nước, chỉnh đốn tổ chức
đã được xúc tiến.
Quyền chiếm hữu
ruộng đất phong kiến bị xóa bỏ vĩnh
viễn. Khẩu hiệu “người cày có ruộng”
của Đảng được thực hiện. 376.722
éc-ta ruộng đất (tức là 45% tổng số ruộng
đất của vùng Cải cách Ruộng đất
đợt 5), 40.716 con trâu bò, 1.138.478 nông cụ và 9.717
tấn lương thực của giai cấp địa
chủ đã đem chia cho 1.325.019 hộ gồm 4.619.165 nhân
khẩu nông dân và lao động khác (82,7% tổng số nhân
khẩu nông dân lao động). Yêu cầu thiết tha
nhất của nông dân đã được thỏa mãn. Ví
dụ: ở Tả ngạn, mỗi cố nông đã có 4
sào, mỗi bần nông 4 sào 2 thước trong khi mỗi trung
nông có 4 sào 12 thước. Những bần cố nông
trước đây không tấc đất cắm dùi
hoặc thiếu ruộng, quanh năm lĩnh canh, cày thuê
cuốc mướn, sỗng lam lũ tối tăm, luôn
luôn bị đói rét, nợ nần, roi vọt và chết
chóc đe dọa, ngày nay đã nghiễm nhiên trở thành
chủ nhân chính đáng của đồng ruộng. Họ
bắt đầu bước vào cuộc đời
mới.
Do nông dân (ND) và đồng
ruộng được giải phóng, trong nông nghiệp ta
đã có một lực lượng sản xuất to
lớn. Vựa thóc của đồng bằng miền
Bắc bắt đầu có điều kiện căn
bản để khôi phục và phát triển mạnh
mẽ. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ, kết hợp với
đợt 5 Cải cách Ruộng đất, kế
hoạch Nhà nước được tích cực thực
hiện. Tuy bận đấu tranh và phong trào gặp
nhiều khó khăn, nông dân vùng Cải cách Ruộng
đất đợt này đã ra sức chống hạn,
cứu bão, sửa mặn, tháo úng. Riêng ở địa
phương thuộc vùng công tác của 29 đoàn (trong
số 32 đoàn), đã cấy chiêm vượt mức
kế hoạch 2,18%, ngô vượt 3,92%, khoai vượt
68,80%. Ở Tả ngạn, chiêm vượt 2,95% về
diện tích và lúa tốt hơn tất cả mọi vụ
trước. Ở vùng Cải cách Ruộng đất
đợt 5 thuộc Liên khu 3, lúa chiêm vượt 4% về
diện tích và 7% về thu hoạch. Phong trào bình dân học
vụ cũng lên mạnh. 14 đoàn đã mở 8.036
lớp sơ cấp gồm 130.148 người học, 4.032
lớp dự bị với 66.817 người.
Về chỉnh đốn
tổ chức, đã phạm nhiều sai lầm nghiêm
trọng. Một số khá đông cán bộ và đảng
viên bị xử trí oan hoặc quá nặng, tác dụng giáo
dục trong công tác chỉnh đốn tổ chức
bị hạn chế, do đó ảnh hưởng
đến sự đoàn kết trong Đảng và sự
liên hệ giữa Đảng với quần chúng, làm
tổn thương một phần lực lượng cách
mạng ở nông thôn. Nhưng cũng cần nhận rõ là
cơ sở tổ chức của Đảng, chính
quyền, nông hội ở xã căn bản đã được
trong sạch, được bổ sung bằng những
người tốt mới nảy ra trong phong trào; ở
những nơi chưa có cơ sở hoặc có cơ
sở hoặc có nhưng bị địch phá trong thời
kỳ bị chiếm, chúng ta đã lập lại cơ
sở mới. Trước đây, kể cả những
nơi đã qua giảm tô, tình hình các tổ chức cơ
sở của ta ở xã nói chung là phức tạp, nhiều
nơi lại phức tạp nghiêm trọng, ở vùng
trước bị chiếm nói chung thì phức tạp
hơn vùng tự do cũ. Nhưng bây giờ ủy ban hành
chính, công an, du kích đã được chấn chỉnh
trong sạch hơn trước. Hơn 38% nông dân lao
động đã được tổ chức vào Nông
hội. Miền biển có Hội những người
đánh cá. Các chi bộ Đảng cũng có thanh trừ
được những phần tử bóc lột và một
số phản động trá hình lén lút vào trong Đảng,
kết nạp thêm được 15.019 đảng viên nông
dân tốt. 100 chi bộ mới được xây dựng
ở những vùng cơ sở trắng. Tóm lại, ND lao
động đã thật sự nắm lấy các tổ
chức của mình, nền chuyên chính dân chủ nhân dân
ở xã đã được bước đầu
củng cố, vai trò của bần cố nông ở nông
thôn đã bước đầu được xác
định.
Xét các mặt trên, chúng ta có
thể khẳng định rằng mặc dù có nhiều
sai lầm, đợt 5 Cải cách Ruộng đất
đất cũng đã tạo được những
nhân tố tốt đảm bảo cho sự phát triển
của nông thôn sau này. Với thời gian, do sự lãnh
đạo của Đảng, những nhân tố đó
sẽ có thể phát huy mạnh mẽ tác dụng của nó.
Những sai lầm, thiếu
sót nghiêm trọng
Thắng lợi của
đợt 5 cải cách ruộng đất sẽ rất
to lớn nếu không có những sai lầm thiếu sót
nghiêm trọng đáng tiếc. Khuyết điểm căn
bản của đợt này là anh chị em cán bộ,
trước hết là các cán bộ lãnh đạo, không
đánh giá đúng tình hình nước ta và địch, không
nắm vững phương châm chính sách của Đảng
ở nông thôn trong cải cách ruộng đất. Về
phát động quần chúng, phổ biến là không làm
đúng đường lối của Đảng ở
nông thôn, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên
hiệp với phú nông, do đó đã ảnh hưởng
không tốt đến việc xây dựng mặt trận
chống phong kiến rộng rãi ở nông thôn.
Đối với giai cấp
địa chủ, có khi thiếu phân biệt, không chiếu
cố đúng mức những người đáng chiếu
cố, kém phân hóa cao độ hàng ngũ của chúng trong
khi cần cô lập và đánh mạnh vào bọn
cường hào gian ác. Về trấn áp bọn phá hoại
hiện hành, thì ta đã kiên quyết trừng trị
bọn đầu sỏ, nhưng ít phân biệt trong khi
xử lý những tay chân của chúng, có lúc lẫn lộn
những người lầm đường hoặc
bị cưỡng bức theo địch với bọn
cố ý, nên trong thực tế đã coi thường
việc tranh thủ giáo dục những người
cần tranh thủ giáo dục, làm cho diện xử trí quá
rộng, gây tình trạng căng thẳng ở nông thôn.
Về chỉnh đốn
tổ chức thì không nắm vững phương châm kiên
quyết và thận trọng, thành kiến với tổ
chức cũ và đảng viên cũ, không những không
dựa và bồi dưỡng người tốt, thậm
chí còn đả kích cả một số người
tốt; coi nhẹ việc tranh thủ và giáo dục
người kém, cho nên xử trí quá nặng, có khi oan
uổng; đối với những phần tử xấu,
tuy thái độ kiên quyết, nhưng lại thiếu tranh
thủ cải tạo.
Tóm lại, không thấu
suốt phương châm đoàn kết mọi lực
lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi
lực lượng có thể tranh thủ, trung lập
mọi lực lượng có thể trung lập. Nhiều
lúc ta đã làm trái hẳn lại phương châm chính sách
của Đảng, do đó đã mắc những sai
lầm nghiêm trọng, rõ rệt nhất là trong việc
đánh địch và chỉnh đốn tổ chức. Có
thể nói là có những lúc ta đã thoát ly quần chúng,
thậm chí còn đả kích nhằm vào nông dân, đảng
viên và cán bộ tốt nữa. Những tổn thất
ấy thật là thấm thía cho chúng ta.
Trong một thời gian,
những sai lầm trên đây đã có tính chất phổ
biến trong đợt 5. Cũng có những sai lầm
đã bắt đầu nảy ra từ các đợt
giảm tô và CCRĐ trước đây. Sai lầm đã làm
giảm bớt khá nhiều thắng lợi của phong trào
quần chúng. Những sai lầm đó đã bắt
đầu được sửa chữa từ 3 tháng nay
và hiện đang được tiếp tục sửa
chữa.
Nguồn gốc của
những sai lầm rất phức tạp. Một phần
do địch phá hoại kịch liệt. Một phần
do lập trường và tư tưởng của cán
bộ chưa vững, lại thiếu kinh nghiệm
đánh địch. Nhưng chủ yếu là do sự lãnh
đạo sai lầm và thiếu sót của Ủy ban
Cải cách Ruộng đất trung ương.
Hội nghị các bí thư
Đoàn ủy tháng 6 năm 1956 đã sơ kết
đợt 5 và bước đầu kiểm điểm
sự lãnh đạo trong phong trào phát động quần
chúng giảm tô và Cải cách Ruộng đất nói chung.
Hội nghị cán bộ tháng 7 năm 1956 lại kiểm
điểm thêm về Cải cách Ruộng đất
đợt này. Hiện nay, chúng ta có thể bước
đầu rút ra một số kinh nghiệm về lãnh
đạo Cải cách Ruộng đất để làm bài
học từ nay về sau.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là chân
lý phổ biến, nhưng nghệ thuật của lãnh
đạo là ở chỗ biết kết hợp nó với
thực tiễn cách mạng của nước ta. Do đó,
ta cần luôn luôn học tập lý luận Mác-Lênin,
đồng thời điều tra nghiên cứu kỹ càng
tình hình thực tế của ta. Trong công tác, một mặt
phải nắm vững nguyên tắc cứng rắn của
đường lối chính sách chung, mặt khác lại
phải biết áp dụng đường lối chính sách
ấy một cách linh hoạt, thích hợp với hoàn
cảnh từng nơi từng lúc.
Theo quan điểm Mác-Lênin,
lãnh đạo đúng là định ra đường
lối chính sách đúng, tổ chức việc chấp hành
đúng đường lối chính sách ấy, và kiểm
tra đúng việc chấp hành đó. Muốn bảo
đảm được sự lãnh đạo đúng,
Đảng cần luôn luôn nâng cao công tác tư tưởng,
thực hành lãnh đạo tập thể, và đi đúng
đường lối quần chúng. Trong việc lãnh
đạo, thường xuyên phải điều tra nghiên
cứu và theo sát tình hình, nắm vững trọng tâm công tác,
làm việc có kế hoạch, tổng kết kinh nghiệm,
phê bình và tự phê bình. Những việc này cần làm trong
mọi mặt lãnh đạo của Đảng, về
tư tưởng, chính sách cũng như về tổ
chức.
Dưới ánh sáng của
những luận điểm trên đây, việc kiểm
điểm đợt 5 Cải cách Ruộng đất
đã cho thấy rõ một số điều sai và một
số điều đúng trong lề lối lãnh đạo
của ta từ trước đến nay.
Điều nổi bật
nhất là: qua cuộc vận động quần chúng, ta
đã bước đầu và tương đối
nắm được tình hình phức tạp và luôn luôn
biến động của nông thôn hiện nay. Vào vùng
mới giải phóng, ta đã kịp thời nêu rõ những
đặc điểm của vùng này so với những vùng
tự do cũ. Do đó, đã có những cải tiến
trong kế hoạch và phương pháp phát động
quần chúng đánh địch, có cả những bổ
sung trong chính sách cụ thể. Nhưng về mặt
nhận định tình hình, còn nhiều sai lệch, đôi
lúc sai lệch nghiêm trọng; chủ yếu trong thời
gian qua là: đánh giá địch quá cao, thiếu tỉnh táo,
việc gì không hay xẩy ra cũng cho là địch phá,
tổ chức nào cũng cho là “địch lũng
đoạn” hoặc là “tổ chức của địch
lồng vào”; mặt khác thì đánh giá ta quá thấp, cho
rằng trong vùng địch chiếm cũ, quần chúng quá
lạc hậu, Đảng cũng không có chi bộ nào là
tốt, và những đảng viên và chi bộ còn lại
ngày nay ở địa phương không phải là
những người và những tổ chức đã
từng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch
trước đây, mà đều là xấu cả. Chính do
đánh giá không đúng tình hình về địch, nên đã
làm cho một số đông cán bộ từ chỗ rón rén đến
chỗ làm ẩu, trước thì kiên nhẫn ba cùng phát
động tư tưởng quần chúng, sau thì sinh nghi
ngờ quần chúng, có lúc đã sốt ruột phạm vào
truy bức, mớm cung, bắt bừa, xử ẩu, làm cho
tình hình nông thôn quá căng thẳng. Trong lúc đó, vẫn có
những tên địch thoát được lưới,
thọc tay phá hoại, gây thêm rối loạn. Đó là do
trong phương pháp lãnh đạo và công tác, ta đã
phạm vào chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa duy
tâm, chưa thật xuất phát từ thực tế,
thiếu điều tra nghiên cứu một cách toàn
diện, có khi ta đã lấy những thực tế
cục bộ, thậm chí là những “điển hình”
đặc biệt xấu, để làm căn cứ
kết luận chung.
Về lãnh đạo tư
tưởng, trong CCRĐ, nói chung ta đã tương
đối thấy rõ tư tưởng cán bộ, tư
tưởng quần chúng và cả tư tưởng
của địch. Do đó, so với trước thì ta
đã tăng cường việc tuyên truyền giáo dục
chính sách trong nhân dân; trước và sau mỗi đợt
công tác đều có tổ chức học tập chính sách,
kế hoạch, tổng kết kinh nghiệm và chỉnh
huấn tư tưởng cho cán bộ. Nhưng trong
đợt này, một lối lãnh đạo tư
tưởng sai lẻ tẻ của các đợt
trước, tức là lối nhấn mạnh một
chiều việc chống hữu khuynh, đã biến thành
cách làm phổ biến, do đó đã gây ra tai hại.
Từ hội nghị lần
thứ 7 (tháng 3 năm 1955), Trung ương đã nêu rõ
phương châm đấu tranh tư tưởng của
ta hiện nay là “đấu tranh trên hai mặt trận
hữu và tả”, song chống hữu khuynh là chính, và trong
khi chống hữu, phải đề phòng cán bộ
lệch sang “tả”. Nhưng trong Cải cách Ruộng đất
đợt này, cơ quan lãnh đạo Cải cách Ruộng
đất thường nhấn mạnh chống hữu,
và hầu như quên việc đề phòng cán bộ
lệch sang “tả”. Nhất là thường chỉ
“đả thông” tư tưởng chung chung theo lối
“chụp mũ”, cái gì cũng gán ép cho là “hữu khuynh”, ít
phân tích cụ thể. Do đó, nhiều cán bộ các
đội, các đoàn, và cả một số cán bộ khu,
luôn luôn sợ mình “hữu khuynh”, và nẩy ra tư
tưởng “thà tả còn hơn hữu”!
Về lãnh đạo chính sách,
qua CCRĐ, Đảng ta đã bổ sung được
nhiều vấn đề cụ thể thích hợp
với vùng mới giải phóng, vùng Công giáo, miền
biển, những nơi quanh đô thị, v.v… Nhưng
đợt này, đối với việc trấn áp bọn
phá hoại hiện hành, việc chỉnh đốn tổ
chức vùng mới giải phóng, thì trong chính sách còn
nhiều vấn đề chưa cụ thể. Trong khi
chỉ đạo công tác, có những vấn đề
giải quyết thiếu thận trọng hoặc
đề ra yêu cầu không thực tế. Đặc
biệt trong đợt này, việc trấn áp bọn phá
hoại hiện hành là một nhiệm vụ mới,
phải kết hợp làm tốt trong CCRĐ, đề ra
như thế là đúng, nhưng tiếc rằng yêu
cầu, phương châm, phương pháp, chính sách, kế
hoạch không được cụ thể. Thêm vào đó,
một số cán bộ lãnh đạo thường dùng
lối mệnh lệnh để ép buộc cấp dưới
phải tìm cho ra phản động, cho nên xảy ra tình
trạng trấn áp tràn lan.
Về lãnh đạo tổ
chức, đợt này phạm phải một khuyết
điểm lớn, là trên nhận thức thì ta thấy
đợt 5 là chiến dịch Điện Biên Phủ
chống phong kiến, nhưng về tổ chức thì không
tăng cường lực lượng, lãnh đạo
lại yếu, kiểm tra thiếu sót, làm việc thiếu
dân chủ và tập thể. Trong đợt 5 này, Ủy ban
Cải cách Ruộng đất trung ương và các Đoàn
ủy thiếu theo dõi sát, không chú trọng thu thập ý
kiến của quần chúng và cán bộ, thiếu
điều tra nghiên cứu và tổng hợp đầy
đủ tình hình thực tế, họp không đều và
thiếu bàn bạc cụ thể. Có khi gặp vấn
đề lớn, cũng chỉ đồng ý nhau chung chung
trên nét lớn, còn chính sách và kế hoạch cụ thể
thì lại do cá nhân quyết định.
Sửa chữa sai lầm, phát
huy thành tích
Nhiệm vụ trước
mắt của ta hiện nay là phải tích cực tiếp
tục sửa chữa những sai lầm đã mắc
phải, nhằm ổn định nông thôn, đoàn kết
nhân dân, đoàn kết cán bộ, đẩy mạnh sản
xuất, do đó phát huy các thành tích đã giành
được trong đợt 5 Cải cách Ruộng
đất.
Trước hết cần
thống nhất tư tưởng, đánh giá đúng thành
tích và khuyết điểm của đợt 5. Trên cơ
sở đó, giải quyết những vấn đề
còn lại để mở rộng thắng lợi của
Cải cách Ruộng đất.
Sửa chữa phải có
kế hoạch. Việc gì sửa chữa được
ngay thì phải làm ngay. Việc gì chưa sửa
được ngay thì phải kết hợp trong kiểm
tra lại Cải cách Ruộng đất mà tiến hành.
Cần chú trọng việc khôi phục những cán bộ, đảng
viên tốt và nhân dân bị xử trí nhầm, sửa
lại thành phần giai cấp cho những người
bị quy sai, điều chỉnh lại diện tích và
sản lượng ruộng đất ở những
nơi đã lên quá mức, thực hiện đúng chính sách
liên hiệp phú nông, chú ý đúng mức những gia đình
địa chủ đáng chiếu cố, v.v…
Hiện nay cần ngăn
ngừa hai chiều hướng tư tưởng sai
lệch: một là vẫn còn chủ quan tự mãn, chỉ
thấy thành tích, không thấy sai lầm; không chịu thành
khẩn tiếp thu phê bình, không quyết tâm sửa chữa
sai lầm khuyết điểm hoặc sửa chữa
một cách chiếu lệ; hai là bi quan tiêu cực, chỉ
thấy sai lầm, không thấy thành tích, thành ra mất
tỉnh táo, mất tự tin, dễ phạm những sai
lầm nghiêm trọng mới trong việc sửa chữa.
Cần động viên cán
bộ, phát huy ưu điểm của anh chị em,
đồng thời phải phân tích rõ sai lầm, vạch rõ
nguyên nhân và tác hại của nó, và bàn bạc cụ thể
cách sửa chữa. Giúp cán bộ giải quyết 3 khuynh
hướng không đúng sau đây: một là vì sĩ
diện cá nhân, vì sợ kỷ luật, nên không dám phát
hiện sai lầm khuyết điểm, không kiên quyết
sửa chữa; hai là vì không thấu suốt tinh thần
chỉ thị của cấp trên, ngại khó ngại
khổ, không chịu đi sâu xem xét nghiên cứu, nên lại
lệch từ “tả” sang hữu; ba là sửa chữa không
có lãnh đạo, không có kiểm tra, đi đến
chỗ sửa cả cái đúng.
Trước đây, ta đánh
giá địch quá cao, do đó cán bộ sinh ra thiếu
tỉnh tảo, đi đến truy bức, đánh
địch một cách lung tung, do đó sai lầm lớn.
Nhưng nếu ngày nay ta lại đánh giá lực
lượng địch quá thấp thì cũng là sai lầm
lớn, nó có thể đưa ta đến chỗ tê
liệt cảnh giác, dễ bị địch lợi
dụng phá hoại.
Trước đây, ta vơ
đũa cả nắm, cho ở đâu chi bộ cũng
xấu, cũng phức tạp nghiêm trọng, cũng
bị “địch lũng đoạn” hoặc
“địch lồng vào”, do đó mà mù quáng đả kích vào
chi bộ tốt đảng viên tốt, đó là sai lầm
lớn. Nhưng nếu ngày nay ta không nhận rõ chi bộ
nông thôn nói chung phức tạp và có nơi phức tạp
nghiêm trọng, thì có thể phạm sai lầm như khôi
phục đảng tịch cho những phần tử
xấu.
Trước đây ta chủ
quan tự mãn cho rằng phong trào Cải cách Ruộng
đất không có sai lầm, khuyết điểm gì
đáng kể, do đó không chịu nghe những ý kiến
đúng của cán bộ và lời phê bình đúng của
người ngoài Đảng, không kịp thời ngăn
chặn những sai lầm, khuyết điểm tai
hại, đó là sai lầm lớn. Nhưng nếu ngày nay
lại sinh ra bi quan, để ảnh hưởng
đến việc tích cực sửa chữa khuyết
điểm và phát huy thắng lợi thì cũng có hại.
Trên cơ sở sửa
chữa tốt những sai lầm, khuyết điểm,
chúng ta cần tiến hành tổng kết kinh nghiệm
mấy đợt kiểm tra Cải cách Ruộng
đất, để chuẩn bị phương châm, chính
sách, kế hoạch đầy đủ cho việc mở
rộng phong trào kiểm tra lại Cải cách Ruộng
đất, giải quyết nốt những vấn
đề còn lại, kết thúc tốt cuộc vận
động CCRĐ, đặng chuyển mạnh sang
cuộc vận động tương trợ hợp tác,
đẩy tới sản xuất nông nghiệp.
CCRĐ là một cuộc
đấu tranh giai cấp lớn lao, gay go và phức
tạp. Nó là một cuộc cách mạng long trời lở
đất. Nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ, hàng triệu nông dân hăng hái đấu
tranh, các tầng lớp nhân dân nhiệt liệt ủng
hộ, hàng vạn cán bộ tận tụy công tác. Cho nên,
năm đợt Cải cách Ruộng đất đã thu
được những thắng lợi to lớn. Tiếc
rằng trong đợt 5, ta lại mắc nhiều sai
lầm nghiêm trọng, gây ra những chấn động có
hại. Mỗi một đồng chí chúng ta cần nghiên
cứu những bài học kinh nghiệm thấm thía rút
được trong đợt 5, ra sức góp phần
sửa chữa sai lầm, khắc phục khó khăn và phát
huy ưu điểm, làm cho nông thôn dân chủ của chúng ta
tươi vui và phồn thịnh. Được như
thế thì ta sẽ có một cơ sở tốt để
tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn
hơn trong sự nghiệp xây dựng hòa bình và thống
nhất Tổ quốc.
Nguồn: Học Tập, tạp chí lý luận và chính trị
của Đảng Lao động Việt Nam, số 8, tháng
7/1956, tr. 7-14. Bản điện tử do talawas thực
hiện.
Sửa
sai và tiến lên
Trường
Chinh
http://www.talawas.org
Chúng
ta vừa căn bản hoàn thành CCRĐ ở miền
Bắc, nhưng đồng thời cũng vừa phạm
những sai lầm nghiêm trọng trong công tác Cải cách
Ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Những
sai lầm ấy đã được Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 mở rộng phê phán một
cách sâu sắc.
Trong
bài này, để giải thích thêm về tinh thần
nghị quyết của Hội nghị Trung ương, tôi
sẽ trình bày một số ý kiến, góp vào việc
đánh giá công tác Cải cách Ruộng đất và chỉnh
đốn tổ chức, nhận định về tính
chất những khuyết điểm sai lầm của ta
trong các công tác ấy, bàn về nguyên nhân sai lầm và trách
nhiệm, đồng thời rút ra mấy bài học kinh
nghiệm lớn trong vấn đề này và giúp cán bộ,
đảng viên chúng ta nhận rõ nhiệm vụ trung tâm
đột xuất của Đảng hiện nay là sửa
sai và tiến lên.
Nhiệm vụ cách mạng
phản phong kiến đã căn bản hoàn thành ở
miền Bắc
Cách
mạng dân tộc-dân chủ nhân dân của ta có hai nhiệm
vụ chiến lược: - đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc, - xóa bỏ chế độ
phong kiến.
Đế
quốc và phong kiến là hai lực lượng phản
động nhất câu kết với nhau để
thống trị Việt Nam đã hơn 80 năm. Chính
bọn phong kiến nhà Nguyễn bán nước cho
đế quốc Pháp, và sau khi đế quốc Pháp
chiếm nước ta, chúng đã biến thành ngụy
quyền, làm tay sai cho đế quốc. Đế quốc
dùng phong kiến làm chỗ dựa để xâm lược
Việt Nam, phong kiến Việt Nam ôm chân đế
quốc để duy trì quyền lợi ích kỷ. Tập
đoàn thống trị nhà Nguyễn trước đây nói
chung tiêu biểu cho giai cấp địa chủ phong
kiến phản dân tộc. Chính quyền Ngô Đình Diệm
ở miền Nam hiện nay đại biểu cho tầng
lớp địa chủ phong kiến và tư sản
mại bản thân Mỹ, hiện đang phá hoại
thống nhất Việt Nam, hòng biến miền Nam
nước ta thành một thứ thuộc địa và
căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ.
Đế quốc và phong kiến là hai đối
tượng chính của cách mạng Việt Nam, hai
kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.
Muốn
đánh đổ đế quốc phải đồng
thời đánh đổ phong kiến. Ngược
lại, muốn đánh đổ phong kiến phải
đồng thời đánh đổ đế quốc.
Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong
kiến không thể tách rời.
Cách
mạng dân tộc-dân chủ nhân dân của ta là một
cuộc cách mạng chống đế quốc, chống
phong kiến, một cuộc cách mạng của quần
chúng nhân dân đông đảo, nghĩa là của giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư
sản, giai cấp tư sản dân tộc và những nhân
sĩ dân chủ, thân sĩ yêu nước do giai cấp công
nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở công nông liên minh.
Mục đích của cuộc cách mạng đó là giành
độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển dân
chủ nhân dân, tạo điều kiện tiến tới
chủ nghĩa xã hội.
Cách
mạng tháng Tám và kháng chiến đánh đổ đế
quốc ở miền Bắc và làm yếu thế lực
phong kiến ở nước ta. Cải cách Ruộng
đất đánh đổ giai cấp địa chủ
và xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu
ruộng đất ở miền Bắc. Cách mạng tháng
Tám giành được chính quyền nhân dân, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kháng chiến
thắng lợi tiêu diệt lực lượng đế
quốc và ngụy quyền ở miền Bắc, hoàn toàn
giải phóng một nửa nước ta. Cải cách
Ruộng đất tiếp tục nhiệm vụ cách
mạng phản phong kiến của nhân dân ta từ
trước đến nay, đánh đổ giai cấp
địa chủ ở miền Bắc đưa nông dân
lên làm chủ thật sự ở nông thôn, thực hiện
người cày có ruộng. Đó là những thắng
lợi về chiến lược, thắng lợi của
quần chúng nhân dân nước ta đấu tranh gian
khổ và anh dũng trong bao nhiêu năm dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đạt
được những thắng lợi đó tức là
hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng dân tộc-dân chủ nhân dân ở miền Bắc.
Lực
lượng cách mạng ở nước ta là nhân dân mà 87%
là nông dân. Sự nghiệp dân tộc giải phóng muốn
thành công, kháng chiến muốn thắng lợi, chủ
yếu phải dựa vào nông dân. “Thực chất của
vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân”.
Nông dân trực tiếp bị giai cấp địa chủ
phong kiến áp bức bóc lột. Cơ sở của phong
kiến ở nước ta là chế độ phong
kiến chiếm hữu ruộng đất, nó làm cho
tuyệt đại đa số nhân dân nước ta là nông
dân khổ cực, đồng thời kìm hãm nông nghiệp,
cản trở công thương nghiệp nước ta phát
triển, giữ nước ta ở trình độ nông
nghiệp lạc hậu, không tiến lên trình độ công
nghiệp hóa hiện đại được. Vì vậy
mà nước ta nghèo, dân ta khổ. Cho nên Cải cách
Ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp
địa chủ, xóa bỏ chế độ phong kiến
chiếm hữu ruộng đất là chính nghĩa, là nhân
đạo. Cách mạng tháng Tám, Kháng chiến trường
kỳ và Cải cách Ruộng đất là ba sự kiện
lịch sử lớn nhất của nước ta trong
vòng mười một năm nay. Nó quyết định thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc-dân
chủ nhân dân ở miền Bắc nước ta.
Với
Cải cách Ruộng đất căn bản hoàn thành ở
miền Bắc, nhiệm vụ cách mạng phản phong
kiến ở miền Bắc cũng căn bản hoàn
thành.
Những
sai lầm của phát động quần chúng thực
hiện Cải cách Ruộng đất nghiêm trọng,
nhưng không có nghĩa là chủ trương Cải cách
Ruộng đất của Đảng Lao động
Việt Nam và của Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là sai. Những sai lầm ấy hạn
chế thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
phản phong kiến ở miền Bắc chứ không xóa
bỏ thắng lợi đó.
Phát động quần chúng
để thực hiện Cải cách Ruộng đất
là đúng và cần thiết
Gần
đây, có ý kiến cho rằng không cần phát động
quần chúng cũng thực hiện Cải cách Ruộng
đất được, hoặc muốn thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”
chỉ cần vận động địa chủ
hiến ruộng đất cũng đủ. Ý kiến
ấy có đúng không? Không đúng.
Cải
cách Ruộng đất là một cuộc cách mạng, là
sự nghiệp của hàng triệu quần chúng nông dân do
Đảng lãnh đạo. Bất kể cuộc cách
mạng lớn nhỏ nào, không phát động quần chúng
đều không thể làm được.
Có
hai cách thực hiện Cải cách Ruộng đất: hòa
bình cải cách ruộng đất và phát động
quần chúng cải cách ruộng đất. Ta đã phát
động quần chúng thực hiện Cải cách
Ruộng đất; như thế là đúng và cần
thiết vì những lẽ dưới đây:
-
Nước ta là một nước do đế quốc và
phong kiến thống trị từ lâu đời. Trải
qua hàng chục thế kỷ, nông dân nước ta bị
địa chủ phong kiến áp bức bóc lột, không
ngóc đầu lên được. Nay phải phát
động quần chúng nông dân mới dám mạnh dạn
vươn mình, đấu tranh đánh đổ
địa chủ, tự tay mình giành lại ruộng
đất cho mình.
-
Phát động quần chúng là làm cho quần chúng tự
giác, tự nguyện tham gia cách mạng ruộng
đất, huy động lực lượng quần chúng
nổi dậy đập tan chế độ phong kiến
chiếm hữu ruộng đất, thực hiện
chế độ sở hữu ruộng đất của
nông dân lao động. Chính quyền và cán bộ không thể
và không nên làm thay và ban ơn cho nông dân.
-
Có phát động quần chúng mới làm cho giai cấp
địa chủ chịu khuất phục trước
sức mạnh vùng lên của quần chúng nông dân, và
quần chúng nông dân mới tự tin ở lực
lượng của bản thân mình. Đó là điều
rất cần để giành lại ruộng đất và
giữ được ruộng đất.
Có
người nói: ta vận động hiến ruộng
cũng đủ ruộng đất chia cho nông dân. Tôi xin
trả lời: trong hoàn cảnh nước ta có thể
vận động cả giai cấp địa chủ
hiến ruộng. Một giai cấp xã hội không bao
giờ tự nguyện nhường tư liệu sản
xuất mà nó đã chiếm giữ từ lâu đời cho
một giai cấp bị nó bóc lột bao giờ. Hòa bình
cải cách ruộng đất bằng cách vận
động hiến ruộng là một ảo tưởng.
Có
người cho rằng: ta đã có chính quyền từ Cách
mạng tháng Tám; ta có thể dùng biện pháp chính quyền mà
lấy lại ruộng đất cho nông dân, không phải
phát động quần chúng làm gì cho phiền phức.
Hoặc có người hỏi: tại sao ta không thực
hiện Cải cách Ruộng đất theo kiểu một
vài nước anh em, như thế có nhanh và gọn hơn
không? Sự thật là ta có kết hợp biện pháp hành
chính của chính quyền với đấu tranh quần
chúng trong Cải cách Ruộng đất. Nhưng trong khi
phát động quần chúng, ta có coi nhẹ biện pháp
chính quyền (ví dụ ta coi nhẹ việc phối hợp
công an, tư pháp với phát động quần chúng, coi
nhẹ những biện pháp hỏi cung, đối
chiếu tang chứng, sử dụng tòa án nhân dân
đặc biệt một cách không đúng, v.v…). Dùng riêng
biện pháp chính quyền mà Cải cách Ruộng đất
thì đương nhiên là không đủ, phải kết
hợp chặt chẽ đấu tranh của quần chúng
từ dưới lên với mệnh lệnh của chính
quyền từ trên xuống, và phải coi đấu tranh
quần chúng là chủ yếu thì mới thực hiện
Cải cách Ruộng đất được tốt. Sai
lầm không phải tại ta đã phát động quần
chúng, mà chính vì càng về sau này, cán bộ các Đội không
thật sự phát động quần chúng, không tin ở
quần chúng, mà lần truy bức, nhục hình, bắt
bớ tràn lan để thay cho phát động quần chúng,
và trong phát động quần chúng, ta đã không sử
dụng biện pháp chính quyền một cách đầy
đủ.
Có
người nói: phát động quần chúng để
thực hiện Cải cách Ruộng đất là đúng,
nhưng phát động theo kiểu “đấu tố”
như thế là sai. Nhưng cần nhớ rằng Cải
cách Ruộng đất là một cuộc đấu tranh
giai cấp, trong đó ta phát động tư tưởng
quần chúng nông dân bằng cách lấy khổ gợi
khổ, qua tố khổ mà giáo dục ý thức giai cấp
cho nông dân, tổ chức nông dân để nông dân có
đủ lực lượng đấu tranh đánh
đổ địa chủ; đó là một việc hoàn
toàn đúng. Sai lầm của cán bộ Cải cách Ruộng
đất là không thật sự phóng tay phát động
quần chúng, lại gò ép quần chúng tố khổ; thành ra
bên cạnh những người tố đúng đã có
một số người tố sai. Hơn nữa,
nhiều cán bộ mù quáng, mất cảnh giác, dựa vào
những phần tử xấu mà không tự giác, rồi
nghe những lời bịa đặt của chúng mà
đánh lầm vào một số người tốt của
ta. Lỗi đó tại cán bộ ta làm sai mà lãnh đạo
không kịp thời phát hiện sai lầm để
ngăn chặn và sửa chữa, chứ không phải
tại chủ trương phát động quần chúng
“đấu tố”.
Phát động quần chúng
thực hiện Cải cách Ruộng đất đã
đạt được những yêu cầu gì?
Hiện
nay, người thì nói Cải cách Ruộng đất thành
công, người thì nói Cải cách Ruộng đất
thất bại, thậm chí có xu trào chỉ dám nói thất
bại mà không dám nói thành công. Đương nhiên, tình hình
ấy chỉ có lợi cho bọn phản cách mạng,
bọn địa chủ vừa bị đánh đổ
ở miền Bắc, chúng đang lợi dụng việc
Đảng ta tự phê bình về những khuyết
điểm, sai lầm trong Cải cách Ruộng đất
và sửa sai để hòng đả kích và “cô lập”
Đảng ta, đả kích bần cố nông và cốt cán
của họ, và xóa bỏ những thành quả của
Cải cách Ruộng đất.
Thật
ra, muốn đánh giá đúng thành công và thất bại
của Cải cách Ruộng đất phải đợi
khi nào tổng kết toàn bộ công tác phát động
quần chúng thực hiện Cải cách Ruộng
đất. Bây giờ, chúng ta hãy kiểm điểm xem phát
động quần chúng đã đạt được
những mục đích yêu cầu gì? Mục đích yêu
cầu của phát động quần chúng Cải cách
Ruộng đất là:
a- Đánh đổ giai cấp địa chủ,
đập tan uy thế chính trị của giai cấp
địa chủ, thực hiện ưu thế chính
chị của nông dân lao động ở nông thôn, thực
hiện nông dân làm chủ nông thôn.
b- Xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm
hữu ruộng đất, thực hiện chế
độ sở hữu ruộng đất của nông dân
lao động, thực hiện người cày có ruộng,
giải phóng sức sản xuất ở nông thôn.
c- Giáo dục cho nông dân về mặt tư
tưởng và chính trị, làm cho nông dân nhận rõ
bọn thực dân đế quốc và giai cấp
địa chủ phong kiến là kẻ địch,
nhận rõ Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, thật thà mang lại quyền lợi cho mình;
nhận rõ chính quyền nhân dân là của mình, v.v…
d- Kết hợp chỉnh đốn tổ chức
ở nông thôn, chỉnh đốn chi bộ, nông
hội, chính quyền, dân quân du kích, chi đoàn Thanh niên
Cứu quốc Việt Nam, chi hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam; bồi dưỡng cán bộ cơ
sở.
Hãy
xét xem trong khi thực hiện các mục đích yêu cầu
ấy của phát động quần chúng, ta đã
đạt được những gì, không đạt
được những gì?
Về
yêu cầu thứ nhất, trong phát động quần chúng
Cải cách Ruộng đất, giai cấp địa
chủ phong kiến về căn bản đã vĩnh
viễn bị đánh đổ ở miền Bắc, nói
chung ưu thế chính trị của nông dân lao động
đã được xây dựng ở nông thôn. Tuy vậy,
một số phú nông hoặc nông dân lao động lại
bị vạch lầm là địa chủ, là phản
động và bị đả kích nặng. Đó là một
điều rất đáng tiếc. Nhưng phải
nhận rằng nông dân vẫn làm chủ nông thôn.
Có
người nói: nông dân đã làm chủ nông thôn từ Cách
mạng tháng Tám, và ở vùng mới giải phóng, quân
đội viễn chính Pháp rút đi đến đâu là
nông dân làm chủ đến đó rồi. Song thật ra
chưa Cải cách Ruộng đất, chưa xóa bỏ
chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng
đất thì chưa có thể chấm dứt
được tình trạng địa chủ khống
chế nông thôn, nhất là ở vùng sau lưng địch
trước đây, và nông dân vẫn chưa thể thật
sự làm chủ nông thôn.
Về
yêu cầu thứ hai, xóa bỏ chế độ phong
kiến, chế độ sở hữu ruộng
đất của nông dân lao động, giải phóng
sức sản xuất ở nông thôn, việc đó ta đã
thực hiện được trong Cải cách Ruộng
đất. Tuy vậy một số nông dân bị vạch
lầm là địa chủ, do đó đã bị tịch
thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất và chỉ
được chia một phần ruộng đất
xấp xỉ với số bình quân chiếm hữu của
nông dân ở địa phương, nhưng không
được chia ruộng nguyên canh, tốt và gần.
Có
người bảo: nông dân đã làm chủ ruộng
đất từ Cách mạng tháng Tám hay từ Kháng
chiến rồi. Thật ra có nơi nông dân chỉ tạm
sử dụng ruộng đất vắng chủ theo
lối ai cày người ấy được
hưởng và được chia lại công điền;
qua Cải cách Ruộng đất, họ mới thật
sự có quyền sở hữu ruộng đất.
Về
yêu cầu thứ ba, trong phát động quần chúng, nông
dân đã được giáo dục về tư
tưởng và chính trị. Họ đã nhận rõ
đế quốc và phong kiến là thù địch. Nói chung
họ đã tự tin ở lực lượng đoàn
kết đấu tranh của họ, tin ở sự lãnh
đạo của Đảng. Họ nhận rõ từ
trước đến nay ở nước ta chỉ có
Đảng ta và chế độ ta mới mang lại
ruộng đất cho họ. Tuy vậy, những sai
lầm của ta đã làm cho uy tín của Đảng và
chính phủ tạm thời bị giảm sút một
phần nào (với mức độ khác nhau tùy từng
nơi) dù rằng quần chúng nông dân nói chung vẫn tin
tưởng ở Đảng và CP.
Có
người cho rằng nông dân miền Bắc đã
được giáo dục nhiều về tư
tưởng và chính trị trong tám năm Kháng chiến toàn
quốc. Điều đó đúng, nhưng chỉ đúng
một phần. Không phát động quần chúng thì không
thể giáo dục giai cấp, không thể giáo dục
lập trường, tư tưởng một cách sâu
sắc cho quần chúng nông dân được, cũng
chưa thể hạ uy thế chính trị của giai
cấp địa chủ ở nông thôn.
Về
yêu cầu thứ tư, việc kết hợp với phát
động quần chúng Cải cách Ruộng đất mà
chỉnh đốn tổ chức có làm được
phần nào. Đó là làm cho thành phần các tổ chức
ở nông thôn tương đối trong sạch, nhưng
chưa thể nói là vững mạnh (địa chủ,
cường hào đã bị đuổi ra khỏi tổ
chức, hàng vạn cốt cán đã được đào
tạo và bồi dưỡng trong phong trào; những cốt
cán đó nói chung thành phần trong sạch, nhưng phần
lớn trình độ chính trị và kinh nghiệm công tác còn
non kém; cũng có một số phần tử xấu
được đưa lầm nên thành cốt cán và
được kết nạp vào tổ chức, nhưng
đó chỉ là số rất ít). Có hàng trăm xã vùng
mới giải phóng trước đây chưa có chi bộ,
nay ta xây dựng được chi bộ mới.
Nhưng
thất bại của chỉnh đốn tổ chức
thì rất nặng; càng về những đợt sau này, sai
lầm càng lớn. Đau đớn nhất là đánh
lầm vào nội bộ Đảng và nội bộ các
tổ chức quần chúng ở cơ sở cũng
như vào nội bộ nông dân, khiến cho một số
cán bộ, đảng viên và nông dân cách mạng có thành tích bị
xử oan.
Tóm
lại, phần quan trọng của những mục
đích, yêu cầu của phát động quần chúng nói
chung đã đạt. Những sai lầm của ta có
hạn chế những kết quả đã thu
được, nhưng ta không thể không khẳng
định thắng lợi của Cải cách Ruộng
đất. Chính vì thế nên Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 mở rộng đã đánh giá
Cải cách Ruộng đất “là một cuộc chuyển
biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã
hội” [1].
Đánh giá sai lầm trong CCRĐ
và chỉnh đốn tổ chức
Sai
lầm trong Cải cách Ruộng đất và chỉnh
đốn tổ chức thể hiện trên mấy
mặt công tác dưới đây:
- đánh địch và
trấn áp bọn phá hoại hiện hành,
- qui định thành
phần giai cấp,
- tịch thu, trưng thu,
trưng mua.
- định diện tích
và sản lượng,
- chỉnh đốn
tổ chức Đảng, chính, quân, dân ở cơ sở,
v.v…
Những
sai lầm ấy đã vi phạm đường lối
chung của Đảng ở nông thôn trong Cải cách
Ruộng đất: “dựa hẳn vào bần cố nông,
đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp
phú ông, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm
hữu ruộng đất một cách có phân biệt, có
từng bước, có kế hoạch, có trật tự, có
lãnh đạo”. Hậu quả của những sai lầm
ấy rất tai hại:
1-
Nó đã làm giảm một phần uy tín của Đảng
Lao động Việt Nam và của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, tổn thất một phần
đến cơ sở của Đảng, của Mặt
trận và chính quyền nhân dân.
2-
Nó làm cho nông thôn hiện nay thiếu đoàn kết, ảnh
hưởng không tốt đến thành thị, không
tốt đến khối đại đoàn kết dân
tộc.
3-
Những sai lầm về Cải cách Ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức đã ảnh
hưởng đến quân đội, đụng
đến một số gia đình quân nhân cách mạng;
cơ sở quân dân du kích nhiều nơi bị sứt
mẻ.
4-
Về vấn đề phát triển sản xuất nông
nghiệp, Cải cách Ruộng đất tức là giải
phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi xiềng
xích phong kiến, thực hiện người cày có
ruộng thì tất nhiên nói chung là đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp và mở đường cho
công thương nghiệp nước ta phát triển.
Nhưng sai lầm của ta cũng tạm thời làm cho
nhiều nông dân được đất mà chưa
thật phấn khởi sản xuất, vì diện tích và
sản lượng bị kích lên quá cao.
5-
Vì những lẽ trên đây, cho nên đối với
vấn đề củng cố miền Bắc hiện nay
tình hình nhiều nơi ở miền Bắc chưa
được ổn định, chưa được
củng cố. Đối với vấn đề tranh
thủ miền Nam thì ảnh hưởng không tốt
đến việc tranh thủ các tầng lớp rộng
rãi, nhất là các tầng lớp trên ở miền Nam, không
lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà.
Tóm
lại, sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức đã vi phạm đường
lối chung của Đảng ở nông thôn, vi phạm
chính sách, nguyên tắc và điều lệ của
Đảng, vi phạm chế độ pháp trị dân
chủ và cương lĩnh của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, và ảnh hưởng một phần
nào đến việc thực hiện kế hoạch Nhà
nước năm 1956.
Một
hiện tượng trái ngược là Cải cách Ruộng
đất đáng lẽ củng cố đoàn kết toàn
dân, nhưng vì sai lầm của ta, nên hiện nay tạm
thời đoàn kết bị giảm; đáng lẽ nâng cao
uy tín của Đảng và Chính phủ, nhưng hiện nay
tạm thời uy tín đó bị sút kém một phần nào.
Ta sửa chữa sai lầm có kết quả tốt thì
sẽ phát huy được những nhân tố tích cực
sẵn có do Cải cách Ruộng đất tạo ra,
đồng thời thu hẹp và đi đến thủ
tiêu được những nhân tố tiêu cực, có
hại do sai lầm của ta mang lại.
Tính
chất và đặc điểm của sai lầm trong
Cải cách Ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức có thể tóm tắt lại như sau:
a-
Sai lầm có tính chất “tả” khuynh, biểu hiện
ở chỗ “thái quá” trong việc đánh địch, trong
việc trấn áp bọn phá hoại; vạch thành phần
giai cấp; kích diện tích và sản lượng, tìm
phản động trong tổ chức của ta, v.v… (Tuy
vậy, bên cạnh những sai lầm “tả” khuynh vẫn
còn tồn tại một số sai lầm có tính chất
hữu khuynh, như rón rén, sợ địch, không dám phát
động quần chúng đến nơi đến
chốn; hoặc có một số biểu hiện “tả”
khuynh lại chính là bóng đen của tư tưởng
hữu khuynh: đánh giá lực lượng địch quá
cao, đánh giá tổ chức của ta quá thấp, v.v…)
b-
Sai lầm có tính chất nghiêm trọng, phổ biến và
kéo dài (truy bức nhục hình, đánh địch tràn lan,
không chấp hành đúng đường lối chung của
Đảng ở nông thôn, v.v…). Tuy vậy cũng phải
nhận rằng: lấy một xã mà xét thì sai lầm
vẫn là từng phần, không phải toàn thể (ví
dụ: vạch sai thành phần một số nông dân, không phải
vạch sai tất cả nông dân; xử trí oan một số
người, không phải oan tất cả, v.v…). Về các
đợt sau này, sai lầm phổ biến nhất là truy
bức, nhục hình, đả kích tràn lan và kích diện tích
và sản lượng.
c-
Sai lầm về sách lược và phương châm, chính
sách cụ thể không phải sai lầm về chiến
lược cách mạng, về đường lối cách
mạng nói chung. Tuy vậy, có một số sai lầm
thuộc về nguyên tắc, ví dụ: không chấp hành
đúng đường lối của Đảng ở
nông thôn, đánh lầm vào nội bộ tổ chức
của ta, đả kích sai vào một số nông dân lao
động, tác phong không tôn trọng tập thể và dân
chủ, v.v…
d- Sai lầm trong khi ta
đã có chính quyền, quân đội xâm lược của
bọn đế quốc và ngụy quân, ngụy quyền
đã bị quét sạch khỏi miền Bắc, cách
mạng đã và đang thu được những
thắng lợi về mọi mặt (quân sự, chính
trị , kinh tế, văn hóa) và trong khi cách mạng
Việt Nam đang ở thời kỳ tiến lên, chứ
không phải ở thời kỳ thoái trào.
Tóm
lại, những sai lầm trong Cải cách Ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức rất
nghiêm trọng, nhưng nhất định có thể
sửa chữa. Chỉ có tổn thất do những cán
bộ, đảng viên và quần chúng bị hy sinh oan
uổng thì không có cách nào cứu vãn được. Đó là
một điều vô cùng đau xót cho Đảng và cho nhân
dân. Nhưng dù sao những sai lầm ấy không phá bỏ
thắng lợi về chiến lược của Cải
cách Ruộng đất; nó không dẫn đến thất
bại về chiến lược cách mạng chống
phong kiến ở miền Bắc nước ta.
Nguyên nhân, khuyết
điểm, sai lầm
Muốn
tìm ra nguyên nhân sai lầm, chúng tôi thấy trước
hết cần nhận rõ trong điều kiện nào đã
phạm phải những sai lầm ấy. Trong những
điều kiện dưới đây:
a-
Cũng như bất cứ giai cấp bóc lột nào trong
lịch sử, giai cấp địa chủ nước ta
đến lúc bị đánh đổ thì tìm mọi cách
chống lại Cải cách Ruộng đất; phân tán tài
sản, mua chuộc nông dân, thủ tiêu khổ chủ, ám
hại, mua chuộc cán bộ ta, truy bức thì khai vấy
vào tổ chức ta, v.v… Có người nói: ở
nước ta giai cấp địa chủ dựa vào
đế quốc, nay ở miền Bắc đế
quốc bị đánh đổ thì chúng cũng khắc
đổ, không thể chống lại ta. Nói như thế
là không đúng. Sự thật kháng chiến thành công, quân
đội thực dân bị quét sạch ở miền
Bắc thì một số ít địa chủ (bọn
đại địa chủ) theo đế quốc vào Nam;
một bọn đầu hàng ta, nhưng một bọn
vẫn tìm cách chống lại ta, chống lại Cải
cách Ruộng đất (ngay trong số địa chủ
đã ủng hộ kháng chiến cũng có một số
bị đụng chạm trực tiếp đến
quyền lợi trong Cải cách Ruộng đất cho nên
đã phá hoại phát động quần chúng bằng cách
này hay cách khác). Bọn kiên quyết chống lại
thường dựa vào thế lực phản động
đội lốt tôn giáo hoặc câu kết với bọn
tay sai đế quốc và bọn phá hoại hiện hành
còn lẩn lút ở miền Bắc.
b-
Bị địa chủ phong kiến áp bức bóc lột
từ hàng chục thế kỷ nay, giai cấp nông dân
nước ta thường hay tiêu cực, bị
động, mê tín, nhưng đôi khi khổ quá không nhẫn
nhục được nữa phải đấu tranh
tự phát, phiêu lưu, mạo hiểm, manh động; có
khi hành động lẻ tẻ, có khi hành động
tập thể. Nay được phát động, giáo
dục, tổ chức và lãnh đạo, họ nhận rõ
kẻ thù, nhận rõ lối thoát, thì vùng dậy đấu
tranh quyết liệt, đè bẹp kẻ thù giai cấp;
lúc đó lãnh đạo không cứng thì dễ sinh ra tình
trạng hỗn loạn, đấu tranh quá trớn.
c-
Cán bộ ta phần đông là tiểu tư sản,
trước kia phần nhiều hữu khuynh đối
với địa chủ, nặng về đoàn kết
rộng rãi, thuyết phục một chiều, nhẹ
về đấu tranh giai cấp. Nay nhận rõ sai lầm
cũ thì dễ lệch sang “tả”, còn tư tưởng
“thà tả còn hơn hữu”, cho rằng “tả đỡ
hại hơn hữu”, v.v… Một số cán bộ xuất
thân gia đình địa chủ vì sợ bị hiểu
lầm, sợ bị truy là mất lập trường,
v.v… nên thấy sai nhiều khi cũng không dám đề
đạt ý kiến, hoặc đề đạt một
cách rất yếu ớt, dè dặt.
d-
Ta vừa thắng lợi lớn trong Kháng chiến, lại
bắt đầu bước sang thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước
ta ở sát Trung Quốc, là một nước đang
tiến những bước khổng lồ lên chủ
nghĩa xã hội. Tình hình ấy một mặt đã
tạo ra không khí say sưa thắng lợi, cán bộ
dễ sinh chủ quan, tự mãn; một mặt dễ sinh
ra tư tưởng nóng vội, muốn tiến mau lên
chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống
nhất nước nhà.
Chính
trong những điều kiện ấy, lãnh đạo,
nhất là cơ quan chỉ đạo thực hiện
(như Ủy ban Cải cách Ruộng đất các cấp,
các đoàn ủy, Ban tổ chức Trung ương) đã
phạm những sai lầm nghiêm trọng.
Song, nói như thế không
phải chúng ta đổ tại hoàn cảnh khách quan, mà
chính là để nhận rõ trong hoàn cảnh như thế
nào chúng ta đã phạm sai lầm. Nguyên chính vẫn là do
chủ quan ta có khuyết điểm. Thật thế, do
chỗ không xuất phát đầy đủ từ
thực tế Việt Nam, không nghiên cứu kỹ
những đặc điểm của tình hình Việt Nam
(Việt Nam là một nước nông nghiệp bị
đế quốc áp bức bóc lột trong một thời
gian khá lâu; nước ta chia làm hai miền v.v…), do chỗ
không nẵm vững yêu cầu khách quan của nhiệm
vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
tại (củng cố miền Bắc, nhưng đồng
thời phải tranh thủ miền Nam v.v…) cho nên cơ quan
lãnh đạo và nhất là cơ quan chỉ đạo
thực hiện đã có những chủ trương chính
sách không đúng:
- Nặng về chống
hữu, nhẹ về chống “tả”, tư tưởng
chỉ đạo lệch một chiều;
- Chủ trương
kết hợp bọn phá hoại trong Cải cách Ruộng
đất, căn bản làm tan rã tổ chức phản
động ở xã và thanh trừ phản động ra
khỏi tổ chức cơ sở (yêu cầu quá cao);
- Chủ trương
căn bản hòan thành Cải cách Ruộng đất
trước 20-7-1956 (thời gian quá gấp);
- Nhận định không
đúng về sức phản ứng của địch,
về tổ chức cũ của ta (cho là tổ chức
của ta bị địch lũng đoạn, chi bộ
địch lồng vào chi bộ ta, v.v…);
- Chỉnh đốn
tỉnh, huyện một cách thiếu thận trọng;
phương châm, phương pháp đều có chỗ không
đúng;
- Để cho tổ
chức chỉ đạo thực hiện Cải cách
Ruộng đất thành một hệ thống riêng với
quyền hạn quá rộng, nhưng lại thiếu
kiểm tra đôn đốc chặt chẽ.
Ngoài
ra, tác phong lãnh đạo lại quan liêu, thiếu tập
thể, dân chủ; cơ quan chỉ đạo chủ quan,
tự mãn, độc đoán, chuyên quyền, cho nên mới
có tình trạng một số chỉ thị do cá nhân trong
Thường trực Ủy ban Cải cách Ruộng
đất Trung ương và trong Ban Tổ chức Trung
ương đề ra mà không thông qua tổ chức bàn
định trước, và không trình Trung ương phê
chuẩn. Tình hình sai lầm đã trở nên nghiêm trọng
từ đợt 8 giảm tô và đợt 4 Cải cách
Ruộng đất rồi mà mãi đến giữa
bước hai Cải cách Ruộng đất đợt 5
mới phát hiện và bắt đầu sửa chữa.
Trách nhiệm của các cơ
quan lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện
chính sách
Đường
lối cách mạng phản đế và phản phong
kiến (dân tộc-dân chủ nhân dân) của Đảng nói
chung là đúng, cho nên mới có Cách mạng tháng Tám và kháng
chiến thắng lợi, mới hoàn toàn giải phóng
được miền Bắc và thực hiện
người cày có ruộng trên một nửa nước
ta, điều mà từ bao nhiêu đời nay mới thành
sự thật. Nhưng về chủ trương chính sách
cụ thể, Đảng có khuyết điểm sai
lầm. Đảng thành khẩn tự phê bình và kiên
quyết sửa chữa để đưa toàn dân ta
tiến lên.
Lê-nin
nói: “Thái độ của một chính đảng
đứng trước những sai lầm của mình là
một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và
chắc chắn nhất để nhận xét xem
đảng ấy có đứng đắn hay không và nó có
thật làm tròn nghĩa vụ của mình đối với
giai cấp mình và đối với quần chúng lao
động không. Thành thật nhận sai lầm, phân tích
trường hợp đã đẻ ra những sai lầm
ấy, xét kỹ những biện pháp sửa chữa sai
lầm, đó là dấu hiệu của một đảng
đứng đắn, đó cũng là cách đảng
ấy làm tròn nghĩa vụ của mình, giáo dục và
huấn luyện giai cấp mình và sau nữa giáo dục và
huấn luyện quần chúng.” (Bệnh ấu trĩ
của chủ nghĩa cộng sản)
Trong
sai lầm lần này, Đảng có trách nhiệm
trước nhân dân, vì dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đã xẩy ra những sai lầm
khuyết điểm nghiêm trọng để tổn
hại đến sinh mệnh, tài sản của nhân dân,
tổn thương đến việc thực hiện
cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc,
đến sự nghiệp củng cố miền Bắc
và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà.
Cơ
quan lãnh đạo của Đảng có trách nhiệm, vì
đã thông qua một số chủ trương, chính sách xét
ra thiếu sót hoặc có chỗ không đúng, không nắm
thật vững công tác Cải cách Ruộng đất là
công tác trọng tâm số một trong toàn bộ công tác
củng cố miền Bắc.
Sở
dĩ Đảng có khuyết điểm như trên,
một phần do cơ quan lãnh đạo (Trung ương
và Bộ chính trị) thiếu điều tra, nghiên cứu
nên không xuất phát đầy đủ từ tình hình
thực tế Việt Nam; thiếu kiểm tra đôn
đốc, làm việc thiếu tập thể; và một
phần do cơ quan chỉ đạo thực hiện
(cụ thể là Thường trực Ủy ban Cải cách
Ruộng đất Trung ương và Ban Tổ chức
Trung ương của Đảng) không báo cáo đúng và
kịp thời, không kịp thời phát hiện sai lầm
và đề nghị chính sách và biện pháp sửa chữa
thích đáng.
Vì
vậy, lãnh đạo có trách nhiệm, nhưng trách
nhiệm trực tiếp và quan trọng là do chỉ
đạo thực hiện đã có những sai lầm,
khuyết điểm cụ thể dưới đây:
a-
Chỉ đạo tư tưởng lệch một
chiều, nặng chống hữu, nhẹ chống “tả”
và phòng “tả”, đẩy cán bộ đã “tả” khuynh
lại “tả” khuynh thêm.
b-
Không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Trung
ương Đảng và Chính phủ. Vì thiếu
điều tra nghiên cứu nên đã đề nghị
một số chủ trương chính sách không đúng.
c-
Việc giáo dục cán bộ có nhiều khuyết
điểm, làm cho cán bộ tự mãn, lộng hành, không
nắm chính sách, không tôn trọng 10 điều kỷ
luật trong phát động quần chúng. (Một số ít
phần tử xấu đã phá hoại chính sách của
Đảng và CP bằng những hành động vô nguyên
tắc ở xã.)
d-
Tác phong quan liêu, độc đoán, thoát ly quần chúng, thoát
ly thực tế, chủ quan, tự mãn, không nhìn ra sai
lầm nghiêm trọng để kịp thời sửa
chữa.
Hội
nghị Trung ương lần thứ 10 của
Đảng đã phân tích, phê phán sai lầm, tìm ra nguyên nhân,
định rõ trách nhiệm, và định ra phương châm,
chính sách và kế hoạch sửa chữa. [2]
Có
đồng chí hỏi: phải chăng Trung ương
đùn trách nhiệm cho mấy đồng chí Ủy viên
Trung ương trực tiếp phụ trách Cải cách
Ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức?
Vấn đề không phải là Trung ương đùn
đẩy trách nhiệm cho người này hay người
khác. Trung ương nhận phần trách nhiệm của
mình. Nhưng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, cho nên trách nhiệm trực tiếp vẫn phải quy
vào cá nhân những đồng chí đã lĩnh trách nhiệm
trước Trung ương.
Có
người bảo: kỷ luật thi hành với những
đồng chí có trách nhiệm trực tiếp nhẹ quá.
Trung ương thi hành kỷ luật cán bộ làm sai là theo
phương châm chữa bệnh cứu người, cho nên
đối với những đồng chí đã làm sai,
Đảng lấy giáo dục làm chính. Đương nhiên
kỷ luật đối với từng người có
nặng nhẹ khác nhau, tùy theo những điểm
dưới đây mà quyết định:
- trách nhiệm nhiều
hay ít, trực tiếp hay gián tiếp;
- tác hại của
những sai lầm lớn hay nhỏ;
- động cơ
phạm sai lầm tốt xấu như thế nào;
- thái độ nhận
sai lầm thành khẩn hay không, thành khẩn nhiều hay ít,
v.v…
Việc
thi hành kỷ luật với một số đồng chí
phạm sai lầm là cần thiết: nhưng Đảng
ta thi hành một chính sách sửa sai chứ không thi hành
một chính sách báo thù.
Mấy bài học kinh
nghiệm
Sai
lầm lần này dạy cho ta mấy bài học kinh
nghiệm lớn dưới đây:
1.
Về giai cấp đấu tranh
Giai
cấp đấu tranh là một sự cần thiết và
tất nhiên trong xã hội phân chia giai cấp. Khi ta chưa
có chính quyền thì hình thức giai cấp đấu tranh có
khác với khi ta đã có chính quyền. Từ Cách mạng
tháng Tám, ta đã có chính quyền Nhà nước dân chủ
nhân dân; đó là một thứ vũ khí đấu tranh giai
cấp của ta. Ta phải tận dụng khả năng
của chính quyền trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp địa chủ.
Trong
Cải cách Ruộng đất ta phải dùng chính quyền
ban hành những luật lệ, những điều quy
định cần thiết, có tính chất bắt buộc
đối với giai cấp địa chủ.
Đồng thời, muốn cho giai cấp địa
chủ thi hành đúng chính sách, phải phát động
quần chúng nông dân đấu tranh buộc địa
chủ phải tuân theo pháp luật. Những sắc
lệnh và nghị định của Chính phủ có
hiệu lực nhất định của nó. Nhưng trong
nhiều trường hợp nếu ta không vận
động quần chúng đấu tranh thì không thể
đảm bảo những sắc lệnh và nghị
định ấy được hoàn toàn tôn trọng. Không
thể ngồi bàn giấy ra lệnh mà giải quyết
được vấn đề Cải cách Ruộng đất.
Cán bộ Đảng và chính quyền cũng không thể làm
thay và ban ơn cho nông dân. Cho nên phải kết hợp chính
quyền ra lệnh với quần chúng đấu tranh. Phải
phát động quần chúng đấu tranh và phải coi
đó là biện pháp chủ yếu để Cải cách
Ruộng đất.
Một
trong những sai lầm của ta trong Cải cách Ruộng
đất là đã coi nhẹ việc sử dụng
biện pháp chính quyền.
Đối
với giai cấp thù địch thì nhất định ta
phải đánh đổ. Nhưng giai cấp địa
chủ nước ta đã bị phân hóa, ta phải phân biệt
đối xử với từng hạng địa
chủ. Năm 1953, Trung ương đã nói:
“Ta
thực hiện Cải cách Ruộng đất trong kháng
chiến, nên phải đấu tranh trên hai mặt trận:
mặt trận chống đế quốc và mặt
trận chống phong kiến. Ta lại có Mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi. Vì vậy càng
bớt được kẻ địch càng tốt, càng cô
lập và phân hóa được giai cấp địa
chủ càng hay. Diện đả kích không nên quá rộng.”
[3]
Ta
đã có chính quyền ở miền Bắc, lực
lượng của ta mạnh hơn hẳn lực
lượng của giai cấp địa chủ phong
kiến. Bọn địa chủ nào kháng cự lại thì
ta mới trấn áp. Bọn nào đầu hàng thì ta
để cho chúng thi hành chính sách, phục tùng nông dân; ta không
dùng bạo lực đối với chúng, trái lại ta
mở đường cho chúng lao động cải tạo,
trở thành những con người mới. Đại
hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên-xô
đã nhắc nhở ta về vai trò của bạo lực
trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng
chỉ rõ người cộng sản không phải là thích
dùng bạo lực. Đằng này, do các cơ quan thực
hiện có tư tưởng chỉ đạo lệch
lạc, do cán bộ ta phần lớn thiếu kinh
nghiệm đấu tranh giai cấp, cho nên khi xuống xã,
đứng trước tình hình phức tạp, họ
rối trí, đi đến trấn áp tràn lan, đánh
địch mà đánh cả vào tổ chức của mình,
có lúc đã dùng bạo lực không cần thiết và không
đúng chỗ.
2.
Về nhân dân dân chủ chuyên chính
Nhân
dân dân chủ chuyên chính là dân chủ với nhân dân, chuyên
chính với kẻ thù của nhân dân. Nhưng nhân dân là ai,
kẻ thù của nhân dân là ai? Đó là một vấn
đề vô cùng quan trọng. Nếu không nhận rõ
điều đó thì có khi dân chủ cả với kẻ
thù của nhân dân và chuyên chính không nhắm đúng
đối tượng, mũi nhọn chuyên chính có thể
không chĩa vào kẻ địch. Đối với nhân dân
ta phải bảo đảm quyền tự do dân chủ,
phải mở rộng dân chủ một cách đúng mức.
Nhưng đối với kẻ thù của nhân dân thì
phải kiên quyết thi hành chuyên chính, không thể nhu
nhược.
Trong
Cải cách Ruộng đất, cán bộ ta đã vạch
lầm một số nông dân lên địa chủ hay
cường hào gian ác, đã vạch một số cán
bộ, đảng viên là phản động và đả
kích nặng, gây ra tình trạng hỗn loạn, rất nguy
hiểm. Đồng thời đã vi phạm chế
độ pháp trị, vi phạm quyền tự do dân
chủ của nhân dân, gây ra không khí khủng bố ở
nông thôn.
Việc
mở rộng dân chủ ở thành thị và nông thôn
bảo đảm sự tôn trọng chế độ pháp
trị là rất cần thiết. Sống lâu ngày
dưới chế độ thực dân và phong kiến,
nhân dân ta ngày nay được giải phóng, rất khao khát
tự do. Ta phải phát triển dân chủ để có
thể phát huy tính tích cực của nhân dân, làm cho nhân dân
tích cực tham gia vào công tác quản lý Nhà nước;
nhưng đồng thời cũng phải chuyên chính
đúng mức, đối với bọn phản cách
mạng hiện hành thì kịp thời trấn áp. Vì vậy
một mặt cần giáo dục cho quần chúng nhân dân
nhận rõ mình là chủ nhân của nước nhà, mình có
nghĩa vụ và quyền lợi rõ ràng, dứt khoát; mình
phải được hưởng quyền dân chủ
của mình, nhưng đồng thời cũng phải
biết sử dụng đúng quyền đó, không làm
ẩu, làm bừa, để gây khó khăn cho chính quyền
và địch có thể lợi dụng. Mặt khác,
phải kiện toàn không ngừng bộ máy chuyên chính,
củng cố công an và quốc phòng, nắm vững lực
lượng của ta, không nhu nhược với bọn
phản cách mạng hiện hành, muốn nhân những
khuyết điểm sai lầm của ta mà lừa
phỉnh quần chúng, tổ chức âm mưu nhằm
đạt những mục đích đen tối của
chúng.
3.
Về lãnh đạo
Ta
thường nói lãnh đạo đúng là:
- tìm ra cách giải
quyết đúng vấn đề;
- tổ chức thực
hiện cách giải quyết đúng;
- tổ chức việc
kiểm tra.
Song
muốn tìm ra cách giải quyết đúng vấn đề
thì phải điều tra nghiên cứu tình hình, liên hệ
chặt chẽ với quần chúng, nghĩa là phải
xuất phát từ thực tế; đồng thời
phải nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa
Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng
nước ta, nếu không sẽ phạm phải chủ
nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ nghĩa giáo
điều. Phải tôn trọng nguyên tắc tập
thể dân chủ, nếu không định ra phương
châm, chính sách sẽ thiếu sót, thậm chí sai lầm
nữa.
Muốn
tổ chức việc thực hiện cách giải
quyết đúng phải đưa cách giải quyết
đó xuống quần chúng, bàn bạc với quần chúng,
làm cho quần chúng thông suốt cách giải quyết đó
và tự giác tự nguyện chấp hành, phát huy tính tích
cực và trí sáng tạo của quần chúng. Không thế thì
sẽ phạm phải chủ nghĩa quan liêu, mệnh
lệnh và sẽ thất bại đau đớn. Lãnh
đạo đúng là lãnh đạo theo đường
lối quần chúng: từ quần chúng mà ra, trở về
nơi quần chúng.
Trong
khi chấp hành chủ trương chính sách, phải
kiểm tra đôn đốc, theo dõi sát tình hình, kịp
thời phát hiện vấn đề, tổng kết kinh
nghiệm, sửa chữa sai lầm, phát huy thành tích.
Muốn thế phải phát triển phê bình tự phê bình,
nhất là phê bình từ dưới lên. Phê bình tự phê bình
là liều linh đan chữa bệnh quan liêu và chủ quan,
tự mãn của các cơ quan lãnh đạo và của cán
bộ.
Trong
phát động quần chúng thực hiện Cải cách
Ruộng đất vừa rồi, cơ quan lãnh
đạo cũng như cơ quan chỉ đạo
thực hiện nhiều khi đã không nắm vững cách
lãnh đạo đó. Vì vậy mà đã phạm sai lầm
khuyết điểm nghiêm trọng.
Sửa sai và tiến lên
Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần
thứ 10 mở rộng đã nêu rõ: “Nhiệm vụ và
phương châm trước mặt của chúng ta là: kiên
quyết sửa chữa sai lầm trong Cải cách Ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy
những kết quả và thắng lợi đã thu
được. Trong lúc thực hiện nhiệm vụ
đó thì dựa trên đường lối nông thôn
của Đảng, dựa trên tinh thần tin
tưởng và truyền thống đoàn kết của
Đảng ta và của nhân dân ta; thi hành đúng chính sách
cụ thể sửa chữa sai lầm, nhằm đoàn
kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn
định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi,
đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt công tác
Cải cách Ruộng đất và trên cơ sở đó
đẩy mạnh công cuộc củng cố miền
Bắc, tranh thủ miền Nam và đấu tranh thực
hiện thống nhất nước nhà.”
Sai
lầm này nghiêm trọng, nhưng không phải sai lầm về
chiến lược. Đảng và Chính phủ đã phát
hiện sai lầm và quyết tâm sửa sai, đã
định rõ phương châm, chính sách và kế hoạch
sửa sai một cách thiết thực. Nhân dân ta sẵn có
truyền thống đoàn kết, nói chung vẫn tin
tưởng ở lãnh đạo và sẵn sàng góp sức
vào việc sửa sai.
Vì
vậy ta có đủ điều kiện sửa sai và
tiến lên. Muốn sửa sai cần khắc phục
những tư tưởng sai lầm chính dưới
đây:
- bảo thủ, tự
mãn, không chịu nhận hết sai lầm, không kiên
quyết sửa sai;
- bi quan, tiêu cực, nhìn
mọi cái đều hỏng, không tin ở phần
thắng lợi của Cải cách Ruộng đất,
không tin có thể sửa sai được tốt;
- bàng quan, vô trách nhiệm,
không quan tâm đến việc sửa sai.
- Những nhân tố
thắng lợi chủ yếu của cách mạng ta
(Đảng, Mặt trận, quân đội, chính quyền)
có chịu ảnh hưởng không tốt vì những sai
lầm vừa qua, nhưng chỉ trong một phạm vi
nhất định. Vì thế ta có đủ lý do tin
tưởng ở thắng lợi của công tác sửa sai.
Tuy
vậy, cũng cần nhận rõ những khó khăn
đang gặp trong việc sửa sai. Chủ yếu có khó
khăn dưới đây:
- bọn phản
động đội lốt tôn giáo và bọn địa
chủ ngoan cố, bọn đầu sỏ trong số
tề ngụy cũ đang ngo ngoe ngóc đầu dậy,
phá rối ta;
- vấn đề
sửa sai rất phức tạp, diện sửa sai khá
rộng;
- việc lãnh đạo
sửa sai chưa được thật tăng
cường; nội bộ Đảng hiện còn thiếu
đoàn kết và thống nhất.
Muốn
sửa sai tốt, cần khắc phục những khó
khăn đó.
Gần
đây một số những người bị tố oan
là phản động hoặc bị quy sai thành phần,
sốt ruột chờ sửa sai, đã tự phát báo thù.
Một số địa chủ và bọn phản
động, lưu manh lợi dụng cơ hội lôi kéo
quần chúng bất mãn, gây ra những vụ lộn xộn
trong nông thôn. Đáng chú ý nhất là mới đây bọn
phản động đội lốt tôn giáo đã gây ra
những vụ phá rối trật tự an ninh ở
tại một vài vùng giáo dân ở tập trung. Chúng lợi
dụng lòng tin của một số quần chúng tín
đồ mà lấy lại những quyền lợi nông dân
đã giành được trong Cải cách Ruộng
đất. Rõ ràng là chúng đang ra sức phá hoại
những thành tựu của Cải cách Ruộng đất
và phá hoại việc sửa chữa của ta. Vì vậy,
muốn sửa sai tốt, phải ngăn ngừa những
hành động tự phát, báo thù. Đồng thời
phải trấn áp bọn phản động, bọn
quấy rối, không để cho chúng làm mưa làm gió.
Chính
sách sửa sai đã công bố chưa được
thật cụ thể. Tình hình thực tế ở nông thôn
phức tạp hơn ta tưởng. Cho nên cần rút kinh
nghiệm ở một số địa phương
để bổ sung chính sách đó.
Diện
sửa sai khá rộng. Cần có kế hoạch sửa sai
để tiến hành từng bước. Kế hoạch
ấy phải căn cứ vào chỉ thị của Trung
ương về sửa sai nói chung, đồng thời
cũng phải căn cứ vào yêu cầu cấp bách
sửa sai của từng địa phương và căn
cứ vào thời vụ mà đặt ra cho sát.
Theo
nghị quyết của Trung ương Đảng và
quyết định của Chính phủ, việc sửa sai
sẽ giao cho Đảng bộ và chính quyền các cấp
trực tiếp phụ trách. Cho nên phải kiện toàn
bộ máy lãnh đạo các cấp để cho nó gánh
được trách nhiệm sửa sai theo đúng
phương châm, chính sách mà Trung ương Đảng và
Chính phủ đã đề ra.
Việc
kiện toàn các cấp cần phải đạt yêu cầu
thống nhất tư tưởng và nhận thức
về thắng lợi của Cải cách Ruộng
đất cũng như về những khuyết
điểm sai lầm và nhiệm vụ sửa sai. Trung
ương Đảng và CP quyết tâm sửa sai, nhân dân
mong chờ sửa sai. Có nhiều vấn đề sửa
sai liên hệ mật thiết với chiêm này, đòi hỏi
chúng ta phải giải quyết gấp rút. Chúng ta phải
xiết chặt hàng ngũ, lao mình vào công tác sửa sai.
Qua
các cuộc hội nghị nghiên cứu nghị quyết
của Trung ương Đảng, tư tưởng cán
bộ, đảng viên đã được nhất trí trên
những vấn đề chính. Đương nhiên, vẫn
còn một số vấn đề tồn tại giữa
cán bộ, đảng viên cũ và cán bộ, đảng
viên mới, cán bộ bị xử trí và cán bộ không
bị xử trí, cán bộ đã tham gia Cải cách Ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức với cán
bộ không tham gia Cải cách Ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức, v.v… Tư tưởng
chưa được thống nhất thì hành động
trong việc sửa sai cũng sẽ không được
thống nhất. Vì vậy, phải qua việc hoàn thành
phổ biến nghị quyết của Hội nghị
Trung ương lần thứ 10 mở rộng xuống
đến tận xã mà làm cho tư tưởng và nhận
thức của cán bộ và đảng viên thống
nhất hơn. Cần làm cho toàn Đảng trên cơ
sở thấu suốt tinh thần nghị quyết của
Trung ương Đảng và nâng cao ý thức về trách
nhiệm trước việc sửa sai mà tăng
cường đoàn kết trong Đảng. Do
Đảng được đoàn kết, thống
nhất mà tăng cường đoàn kết giữa các
Đảng ta và các đảng phái, các đoàn thể nhân
dân trong Mặt trận, giữa Đảng ta và quần
chúng nhân dân nói chung. Đó là một điều kiện
cần thiết cho việc sửa sai có kết quả.
Công
tác cách mạng của chúng ta có thành tích và cũng có sai
lầm. Điều cốt yếu là Đảng ta tránh
được những sai lầm về đường
lối cách mạng, và một khi phạm sai lầm dù
lớn hay nhỏ đều thành khẩn nhận hết
sai lầm và kiên quyết sửa chữa.
Sai
lầm của ta trong Cải cách Ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức không có nghĩa là
đường lối cách mạng Việt Nam do
Đảng ta vạch ra là sai, cũng không có nghĩa là
chế độ dân chủ nhân dân của ta là không tốt.
Vì đường lối cách mạng của Đảng ta
đúng, bản chất chế độ ta tốt,
quần chúng nhân dân ta nói chung vẫn tin tưởng ở
Đảng ta và Chính phủ ta, cho nên ta có điều
kiện tốt để sửa sai và tiến lên.
Mỗi
cán bộ và đảng viên chúng ta cần tin tưởng và
hăng hái gánh một phần trách nhiệm trong việc sửa
sai, biến những đau xót của chúng ta trước
những sai lầm thành sức mạnh vật chất
đặng tiến hành tốt công tác sửa chữa sai
lầm, phát huy thành tích, củng cố công nông liên minh,
giữ vững và phát triển thắng lợi của
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc. Do
đó chúng ta làm cho miền Bắc được thật
sự củng cố, chế độ ở miền
Bắc càng tốt đẹp hơn, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để
đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà.
Chú
thích
[1]
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 10 mở rộng.
[2]
Về trách nhiệm cá nhân ở cấp Trung ương thì
xem thông cáo của Trung ương đăng trên báo Nhân dân
ngày 30-10-1956.
[3]
Nghị quyết của Bộ chính trị tháng 8 năm
1953.
Nguồn: Học
Tập,
tạp chí lý luận và chính trị của Đảng Lao
động VN, số 11, tháng 11-12/ 1956, tr. 9-23. Bản
điện tử của Talawas
Xét lại "hồ sơ"
của giai cấp địa chủ
Trần Huy Liệu
http://www.talawas.org
Ngay
từ tháng 3-1954, khi cuộc Cải cách Ruộng đất
đang ở thời kì khắc nghiệt nhất, Trần
Huy Liệu đã viết thư cho ông Hoàng Quốc Việt,
một trong những người lãnh đạo Cải cách
Ruộng đất, nêu ý kiến cho rằng ở Việt
Nam, khác với Trung Quốc, địa chủ đa số
là bậc trung và bậc tiểu, mà phần đông lại
là yêu nước. Vì vậy, cần có sách lược
đối xử đúng mức trong Cải cách Ruộng
đất, không nên gộp tất cả là kẻ
địch. Bài này của Trần Huy Liệu đăng
trên tập san Văn Sử Địa số 25, quý I-1957, kí
tên Hải Khách, bút danh của ông thời Mặt trận Dân
chủ Đông Dương (1936-1939). Nó phản ánh nhận
thức của Trần Huy Liệu - lúc đó là
trưởng ban nghiên cứu Văn Sử Địa - sau
cuộc CCRĐ và thời kì sửa sai. Ngay sau khi bài
được đăng, trong một cuộc họp
ở câu lạc bộ Đoàn kết, ông Trường Chinh
đã nhận xét là bài có sự "mơ hồ giai cấp".
Đặt vấn đề
Sau
những sai lầm nghiêm trọng về Cải cách
Ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức,
đã đến lúc chúng ta cần phải xét lại
một số nhận định từ trước
về tính chất giai cấp, quan hệ giữa các giai
cấp và đối tượng chủ yếu của cách
mạng, các lực lượng tham gia cách mạng trong quá
trình cách mạng Việt Nam. Việc này chúng tôi đã
bắt đầu làm trong mấy số tập san gần
đây. Một nhận thức chung là xã hội Việt Nam
trong thời Pháp thuộc là một xứ thuộc
địa và nửa phong kiến, do đó, nó có những
đặc điểm mà chúng ta phải tìm ra để
biết đến để sắp xếp lực
lượng, định một chiến lược cho
thật đúng.
Với
bài này, tôi nói về giai cấp phong kiến địa
chủ và trước hết, hãy trang trải về danh
từ. Còn nhớ năm 1935, trong cuộc bút chiến
giữa Phan Khôi và Hải Triều, một vấn đề
đã được nêu lên là nước Việt Nam ta còn
có chế độ phong kiến không. Ông Phan Khôi căn
cứ vào mấy chữ định nghĩa "phong
hầu kiến ấp" ngày trước để đi
đến chỗ phủ nhận phong kiến còn tồn
tại ở Việt Nam. Trái lại ông Hải Triều
căn cứ vào chế độ chiếm hữu ruộng
đất của phong kiến, hình thức bóc lột
địa tô của địa chủ để đi
đến kết luận là phong kiến vẫn tồn
tại ở Việt Nam. Cuộc bút chiến hồi đó,
cũng như nhiều cuộc bút chiến khác, không có
trọng tài để phân giải ai phải ai trái một
cách rõ ràng. Nhưng với một nhận thức căn
bản về quan hệ tư liệu sản xuất,
cụ thể là ruộng đất, không ai chối cãi
được là nước Việt Nam có chế
độ phong kiến, có giai cấp phong kiến mà một
trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
là phải đánh đổ bọn phong kiến, tay sai
của đế quốc và quét sạch tàn tích phong
kiến. Trong cuộc giảm tô và Cải cách Ruộng
đất vừa qua, đối tượng của nông
dân là giai cấp địa chủ. Nhưng trong đó còn có
những trường hợp phiền phức như: có
những người về địa vị và danh
vọng thuộc giai cấp phong kiến, nhưng không có
ruộng cho thu tô, không bóc lột theo lối phong kiến.
Liệt họ vào giai cấp nông dân thì cố nhiên họ
không phải là nông dân. Cũng có người nói họ là
chủ của một ít ruộng đất, tức là
tiểu tư hữu nằm trong cơ sở của
chế độ tư sản. Vấn đề rất
phức tạp, cần phải nghiên cứu nhiều. Ngay
đến việc quy định thành phần địa
chủ trong cuộc cải cách vừa qua cũng còn nhiều
điểm phải bàn lại.
Vì vấn
đề phức tạp, mục đích của bài này
chưa đi sâu vào nội dung sinh hoạt của giai
cấp, cũng không tách khỏi địa chủ với
phong kiến, mà chỉ kiểm điểm thái độ
chính trị của họ, nghĩa là xét lại "hồ
sơ" của họ. Cùng với việc nghiên cứu
các giai cấp khác, tôi muốn biết đặc
điểm của giai cấp phong kiến thuộc
địa trong một xứ thuộc địa khác
với giai cấp phong kiến địa chủ trong
một nước độc lập và cũng do đó,
chúng ta càng nhận rõ bạn thù trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định trên lập trường
giai cấp và lập trường dân tộc. Bài này viết
ra tôi mới trình bày những ý kiến sơ bộ và còn
tiếp tục nghiên cứu.
Kiểm
điểm thái độ chính trị của giai cấp
phong kiến địa chủ qua các thời kì
Cần
phải "phân bua" rằng: xét lại "hồ
sơ" của giai cấp địa chủ, một giai
cấp đã bị lên án, liệt vào đối
tượng của cách mạng dân tộc dân chủ, tôi
không có ý định làm "thầy cãi" cho một
tội nhân đã có tội chứng rành rành, mà chỉ tìm
trong đó những tình tiết đáng chú ý, những
trường hợp cần thẩm tra lại, làm nổi
bật lên tính chất của địa chủ ở
một xứ thuộc địa nửa phong kiến.
Không
như các giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư
sản và công nhân mới xuất hiện trong thời kì Pháp
thuộc, giai cấp phong kiến địa chủ
nước ta xuất hiện và nắm quyền thống
trị từ lâu. Trước ngày thực dân Pháp đánh
chiếm nước ta thì mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân và giai cấp địa chủ phong kiến đã
phải nhường chỗ chủ yếu cho mâu thuẫn
giữa toàn dân Việt Nam, trong đó có giai cấp phong
kiến địa chủ, với bọn xâm lược
cướp nước. Cũng từ lúc này sự phân hóa
trong giai cấp phong kiến địa chủ biểu
hiện thái độ chính trị với bọn xâm
lược đã diễn ra không ngừng. Đầu tiên là
sự phân chia giữa phái chủ hòa, nói đúng hơn là
phái đầu hàng, đã đứng trên lập
trường giai cấp của chúng, muốn thỏa
thuận với giặc ngoại xâm để duy trì
quyền lợi một phần nào của chúng khỏi
bị đổ vỡ trước phong trào ngày càng lớn
mạnh của nông dân. Phái chủ chiến đứng trên
lập trường giai cấp từ trước cũng
như lập trường dân tộc, thấy không thỏa
hiệp được với giặc ngoại xâm, không can
tâm làm nô lệ nên chủ trương chiến đấu.
Sau khi phái chủ chiến đã chiến bại và triều
đình Huế đã đầu hàng, công nhận sự
đô hộ của thực dân Pháp thì sự phân chia lại
một lần nữa diễn ra giữa bọn phong
kiến tại triều và một số văn thân kháng
chiến. Nếu chúng ta điểm mặt những lãnh
tụ khởi nghĩa bấy giờ thì hầu hết là
những hưu quan, những nhà khao mục ở các
địa phương. Họ không những không có
đặc quyền đặc lợi gì, mà phần
nhiều thuộc loại "tiếng cả nhà thanh",
nghĩa là danh vọng thì lớn nhưng tài sản thì ít.
Một điểm đáng nghi là: ngoài chỗ dựa vào nông
dân, những phần tử trung kiên trong các cuộc khởi
nghĩa đa số là những nhà Nho nghèo. Về danh
nghĩa họ thuộc giai cấp phong kiến, nhưng
không phải là địa chủ sống bằng
địa tô. Chính những người này là động
lực của cuộc khởi nghĩa kháng Pháp và nối
liền những tập đoàn lãnh đạo khởi
nghĩa với nông dân địa phương.
Nói
đến cuộc lãnh đạo cách mạng trong giai
đoạn đầu, có người thấy giai cấp
địa chủ là đối tượng của cách
mạng ngày nay rồi chực phủ nhận cả
một bộ phận phong kiến đã có lúc lãnh
đạo cách mạng. Có người dựa vào lí luận
nói giai cấp phong kiến địa chủ là kẻ thù
của nông dân thì làm thế nào lãnh đạo được
giai cấp nông dân. Những người này đã xa lìa
thực tế, không đặt giai cấp phong kiến
địa chủ vào khung cảnh thuộc địa,
lại cũng không thấy mâu thuẫn dân tộc ở
một xứ thuộc địa bao trùm cả mâu thuẫn
giai cấp, mặc dù mâu thuẫn dân tộc về thực
chất vẫn là mâu thuẫn giai cấp. Nhìn vào giai
đoạn lịch sử này, chúng ta phải phân biệt
bọn đại phong kiến có những đặc
quyền đặc lợi tại triều đình với
những lớp phong kiến nghèo và những trung, tiểu
phong kiến ở thôn quê đã biểu lộ nhưng thái
độ khác hẳn nhau. Chúng ta một mặt ghi
điểm phản động của giai cấp phong
kiến với chế độ chiếm hữu ruộng
đất bóc lột địa tô, một mặt
đừng quên ghi điểm tiến bộ của
những văn thân yêu nước chống giặc. Một
ngày nào họ chưa đầu hàng đế quốc, còn
đứng trên lập trường dân tộc, còn lãnh
đạo chống Pháp thì nhân dân vẫn ủng hộ
họ. Nói cho cùng những cuộc vũ trang khởi
nghĩa từ khi thực dân Pháp bắt đầu đánh
chiếm Nam Kỳ qua phong trào Cần Vương
đến cuối thế kỉ XIX, trừ một vài
trường hợp đặc biệt không kể nếu
chúng ta cố ý phủ nhận sự lãnh đạo cho giai
cấp nào? Hôm trước, trong cuộc thảo luận
giữa tôi và một đồng chí Liên Xô nghiên cứu
về lịch sử Việt Nam, đồng chí bạn có
đặt ra một câu nghi vấn xem có một nhóm văn
thân vào lúc ấy đã có khuynh hướng tư sản
chưa? Tôi căn cứ vào sử liệu mà trả lời
rằng: chủ trương của các văn thân hồi
đó rõ ràng là bình Tây, là Cần Vương, là khôi phục
chế độ cũ, chớ chưa biểu lộ ra
khía cạnh nào có xu hướng dân chủ cả. Vả
chăng, xu hướng dân chủ tư sản chỉ có
thể sản ra với một điều kiện xã
hội Việt Nam có đủ một nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa và những tầng lớp
tư sản mới.
Qua hai
lần phân chia kể trên, đến đầu thế
kỉ XX, giai cấp phong kiến lại một lần phân
hóa nữa. Lúc này, sau những cuộc khởi nghĩa
thất bại, một bộ phận phong kiến đã
bị phá sản. Trong các cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp, kinh tế tư bản
chủ nghĩa đã dần dần có cơ sở.
Tầng lớp tư sản mới đã bắt đầu
xuất hiện tại các thành thị. Trào lưu tư
tưởng của thế giới tràn vào thông qua các
yếu tố mới đương nẩy nở trong
nước làm cho ý thức hệ của giai cấp phong
kiến bị rạn nứt, rung động. Lần này
phân hóa diễn ra giữa hai phái sĩ phu: một phái
thủ cựu vẫn ôm riết lấy ý thức hệ
phong kiến, và một phái có khuynh hướng dân chủ
tư sản tới một mức độ nào. Những
phong trào đầu thế kỉ XX như: Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân... do một số sĩ
phu tiến bộ trong giai cấp phong kiến lãnh
đạo đã nói lên một biến động lớn
về tính chất của cuộc đấu tranh cách
mạng cũng như về hệ thống tư
tưởng của đẳng cấp sĩ phu. Sau đó
giai cấp phong kiến cho đến hết cuộc
đại chiến thứ nhất, nói chung, đã hết
vai trò lãnh đạo chống thực dân Pháp, nhưng
một bộ phận trong phái sĩ phu tiến bộ mà
tiêu biểu của nó là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã
dần đi vào khuynh hướng tư sản dân chủ
của những tầng lớp đang cấu thành giai cấp
và phong trào tư sản sắp chính thức bắt
đầu. Một bộ phận khác như Lê Văn Huân,
Nguyễn Đình Kiên... lãnh tụ đảng Tân Việt sau
này, còn tiến xa hơn nữa, trút bỏ hết những
nếp tư tưởng, đường lối
đấu tranh của giai cấp phong kiến, giai cấp
gốc rễ của họ để hòa mình vào trào lưu
mới chẳng những có tính chất dân chủ, mà còn có
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở trên
tôi đã đánh dấu vai trò lãnh đạo chống
thực dân Pháp của giai cấp phong kiến, mặc
dầu là một bộ phận, đã chấm dứt
từ sau cuộc đại chiến thứ nhất.
Nhưng vấn đề đặt ra là: có phải từ
đó trở đi, giai cấp phong kiến địa
chủ đã trở nên hoàn toàn phản động, cấu
kết với thực dân Pháp để chống lại dân
tộc không? Chúng ta phải xét lại sự nhận
định ấy đúng đến đâu, đến
mức độ nào? Tốt hơn hết là chúng ta hãy trình
bày những sự thực diễn ra qua các thời kì
để làm cơ sở cho nhận xét khách quan.
Thực
ra, ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm
chiếm nước ta, một bộ phận phong kiến,
chủ yếu là phong kiến cầm quyền tại
triều đình Huế, đã câu kết với giặc,
làm tay sai cho giặc để giết hại đồng
bào, phản lại Tổ quốc. Những tên đại
Việt gian như Trần Đình Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng
Cao Khải... chẳng những là kẻ thù dân tộc, mà còn
là kẻ thù của phe phong kiến chống Pháp lúc bấy
giờ. Trong hai bức thư trao đổi giữa Hoàng
Cao Khải và Phan Đình Phùng, chúng ta thấy rõ hai
người cùng một giai cấp mà đứng trên hai
lập trường, phân biệt rõ rệt người
phong kiến yêu nước. Từ sau cuộc đại
chiến thứ nhất, giai cấp tư sản VN hình
thành. Nhưng một đặc điểm của xứ
thuộc địa, xứ nông nghiệp mà chúng ta
đừng quên là: những nhà tư sản lớp trên
đa số xuất thân từ giai cấp phong kiến
cũng như số công thương gia kiêm địa
chủ hay địa chủ kiêm công thương gia khá
nhiều. Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ là
một tập đoàn đại địa chủ tư
sản hóa vừa có hàng nghìn hàng vạn mẫu ruộng thu
tô vừa có những nhà máy gạo, máy dệt, hãng làm xà
phòng, thuốc lá ở thành thị, đến cả nhà VN
ngân hàng. Do đó, khuynh hướng chính trị của
họ biểu lộ ra từ khoảng những năm
1922-1926 là đòi tự do dân chủ, tán thành cải
lương để rồi đi đến "Pháp
Việt đề huề", sát cánh với bọn
đại biểu của tư sản Pháp trong các nghị
trường và cuối cùng là chống lại phong trào
đấu tranh của nhân dân ngày một lên cao. Từ
năm 1930 trở đi, đối tượng cách
mạng chẳng những chĩa vào thực dân Pháp mà còn chĩa
vào giai cấp phong kiến địa chủ thì thái
độ bọn địa chủ, trong đó đa
số là quan lại và chính khách cũng tỏ ra quyết
liệt, không còn miếng đất nào có thể hòa
giải với cách mạng. Đảng Lý Nhân mà hồi
đó người ta nhắc đến ở Nam Kỳ
cũng như ở Nghệ Tĩnh là một đảng
chống lại cách mạng. Cho tới nay chúng tôi vẫn
chưa tìm được tài liệu cụ thể về
đảng này, chỉ biết rằng hồi đó
bọn thống trị Pháp âm mưu lập một tổ
chức dựa vào phong kiến địa chủ
để đàn áp cách mạng. Thái độ phản cách
mạng của bọn đại địa chủ đã
rõ rệt, nhưng chỗ mà chúng ta cần đi sâu vào là
thái độ của tầng lớp trung, tiểu
địa chủ ra sao? Tài liệu về phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 cho biết rằng:
những ngày đầu nhiều địa chủ phú nông
cũng hưởng ứng theo phong trào, sẵn sàng đem
thóc gạo trong nhà đem cống ra xã hội. Nhưng
với khẩu hiệu "Trí, phú, địa, hào, đào
tận gốc, trốc tận rễ", những
người lãnh đạo phong trào hồi đó đã không
nắm vững đường lối chính trị của
đảng, đã làm cho công, nông bị cô lập và mặt
trận thống nhất dân tộc bị tan rã và không tranh
thủ được trung tiểu địa chủ còn có
thể đi được với cách mạng đến
một chừng mực nào, trong một phạm vi nào.
Tiếp
đến phong trào Mặt trận Bình dân 1936-1939. Vì là
một phong trào đấu tranh công khai và hợp pháp mà
chương trình tối thiểu của Đảng
Cộng sản đề ra là chống phản động
thuộc địa, đòi tự do dân chủ và cải
thiện dân sinh, nên sự phản ứng của giai
cấp địa chủ không rõ rệt. Chỉ biết:
trong tổ chức cũng như công tác đều có
những thành phần nhỏ địa chủ tham gia.
Những "giáp mới" và "hội hiếu",
"hội hỷ" bấy giờ, những hình thức
vừa để đoàn kết nông thôn vừa là
"hội biến tướng của cách mạng"
đều có mặt cả trung, tiểu địa
chủ. Nhưng đến năm 1939, trong âm mưu trở
lại hiệp ước 1884, chúng ta thấy rõ một
lần nữa, thực dân Pháp câu kết với bọn
phong kiến mà Phạm Quỳnh và Phạm Lê Bổng là
chủ mưu, đã muốn khôi phục uy quyền của
bọn phong kiến Nam triều để đàn áp phong trào
nhân dân đương sôi nổi, kẻ phản
động rõ rệt chống lại nhân dân vẫn là
bọn vua quan phong kiến.
Tháng 6
năm 1940, sau khi quân Nhật kéo vào Đông Dương, nhân
dân Đông Dương nói chung, nhân dân VN nói riêng bị
một cổ hai tròng. Những việc cướp
đất làm trường bay hay khu quân sự, nhổ ngô
lúa trồng đay, gai và bắt nộp thóc tạ...
chẳng phải chỉ trút lên đầu nông dân, mà chính
nhiều địa chủ phải chịu nhiều
thiệt hại nặng nề. Do đó, không kể bọn
đại địa chủ và bọn bám theo Nhật
hoặc bám theo Pháp, một số trung, tiểu địa
chủ đều ngã theo cách mạng, theo chủ
trương đánh Pháp đuổi Nhật của ĐCS
Đông Dương. Biểu hiện rõ rệt nhất là
khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11-1940. Trước tình
thế mới, vài quyền lợi cấp thiết của
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, Đảng
Cộng sản Đông Dương tạm gác khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của địa
chủ chia cho dân cày, thay bằng khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của bọn Việt gian phản
quốc chia cho dân cày. Tôi còn nhớ lúc ấy một
cuộc hội thảo sôi nổi đã nêu lên giữa các
đảng viên: thay chiến lược hay thay chiến
thuật. Chỗ này quan hệ lắm, nếu thay
đổi theo chiến thuật thì đó chỉ là cách
ứng phó thích nghi của một hoàn cảnh nhất thời;
trái lại thay đổi chiến lược là thay
đổi cả đối tượng cách mạng và cách
bố trí lực lượng cách mạng trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Kết
quả, theo lời giải thích của trung ương, thì
đây không phải là thay đổi chiến thuật mà là
thay đổi chiến lược. Có điều đây là
chiến lược ngắn chuyển trọng tâm sang
cuộc giải phóng dân tộc. Nó vẫn nằm trong
chiến lược dài, nghĩa là chiến lược cách
mạng dân chủ tư sản với hai nhiệm vụ
là phản đế và phản phong.
Thế rồi, Mặt trận Việt Minh thành lập
(5-1941) và một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi hơn hết từ trước đến bây
giờ so với mặt trận phản đế và
Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Trong bản
chương trình điều lệ nêu rõ chủ
trương cứu nước của mặt trận
Việt Minh là liên hiệp hết các tầng lớp nhân
dân... làm cho xứ Việt Nam và cả xứ Đông
Dương được hoàn toàn độc lập.
Về mặt kinh tế, bản điều lệ chỉ
nêu lên tịch thu hết tài sản của phát xít Nhật,
Pháp và bọn Việt gian, Hán gian... chia lại công
điền, giảm địa tô. Đối với
tầng lớp nhân dân bản điều lệ ghi rõ
quyền sở hữu ruộng đất của
địa chủ vẫn được coi trọng.
Về tổ chức, địa chủ được gia
nhập Việt Nam Cứu quốc hội. Ở đây
chúng ta chưa bàn đến chủ trương của
Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua
mặt trận Việt Minh, mà chỉ cần ghi rằng:
theo chiến lược ngắn này, thì, trong cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giai cấp địa
chủ cho đến bây giờ chưa phải đã là hoàn
toàn câu kết với đế quốc. Về mặt kinh
tế, nói rõ hơn là về mặt sản xuất, họ
là phản động, nhưng về mặt chính trị,
trừ bọn đại địa chủ hay địa
chủ quan lại, những trung và tiểu địa
chủ còn có thể góp sức vào công cuộc cứu
quốc tới một mức độ nào. Chính cũng vì
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt
trận Việt Minh đã tập hợp được
mọi lực lượng của các tầng lớp nhân
dân, đưa đến cuộc cách mạng Tháng Tám thành
công. Cuộc cách mạng Tháng Tám, tính chất dân tộc
của nó đã nổi lên.
Có lẽ tôi không phải nói
nhiều về thái độ của giai cấp địa
chủ nói chung, tầng lớp tiểu địa chủ
nói riêng. Từ sau cách mạng Tháng Tám và những ngày
đầu kháng chiến, sự thật thì có một số
đại địa chủ, nhất là địa chủ
quan lại, đã quây quần xung quanh bọn phản
động Quốc Dân Đảng ở ngoài Bắc,
Nguyễn Văn Thinh của "Nam Kỳ quốc", và
sau hết là bù nhìn Bảo Đại. Nhưng sự
thật cũng là đại đa số trung tiểu
địa chủ, ngay cả một vài đại
địa chủ, đã đứng trong Mặt trận
Liên Việt, dự vào cuộc toàn dân kháng chiến, theo
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng
ta không đòi hỏi nhiệt tình và công sức của
đại địa chủ ngang với công nông và trí
thức, mà chỉ đặt mức độ tối
thiểu là không theo giặc phản nước và tham gia
kháng chiến trong một phạm vi nào đó. Đành
rằng trong chính sách đối đãi cũng như quy
định thành phần nông dân, chúng ta có phân biệt giai
cấp địa chủ với những nhân sĩ yêu
nước. Nhưng nhân sĩ yêu nước chỉ là
một con số rất nhỏ, địa chủ kháng
chiến là con số lớn.
Đề
nghị xét lại một vài nhận định từ
trước
Trở lên trên, bằng
những sự việc chứng thực, tôi đã trình bày
về thái độ chính trị của giai cấp phong
kiến địa chủ qua các thời kì để đi
đến mấy nhận xét sơ bộ.
Nhận xét thứ nhất là
vì địa vị, quyền lợi của các tầng
lớp trong giai cấp phong kiến địa chủ có
chỗ khác nhau nên thái độ với đế quốc
cũng không phải đều giống nhau. Bọn
đại địa chủ, nhất là bọn địa
chủ quan lại thì từ trước tới sau, đại
đa số làm tay sai cho đế quốc, hay ngã về
đế quốc. Chúng là kẻ thù của dân tộc, không
ai có quyền bênh vực. Nhưng ngoài những văn thân
yêu nước đánh giặc, tầng lớp trung tiểu
địa chủ cũng bị áp bức dưới ách
đế quốc, nên một số đã đứng trong
mặt trận dân tộc chống chủ nghĩa
đế quốc.
Nhận xét thứ hai,
nước ta từ trước là một nước nông
nghiệp, ngoài một số ruộng đất tập
trung vào địa chủ, những ruộng đất
bị phân tán linh tinh. Theo bảng quy định thành
phần trong dịp Cải cách Ruộng đất ở
miền Bắc, số trung tiểu địa chủ chiếm
đa số trong giai cấp địa chủ và số
ruộng đất chiếm hữu của mỗi
người không nhiều. Nếu đem số ruộng
đất chiếm hữu của mỗi trung, tiểu
địa chủ xứ ta so với địa chủ
nhiều nước khác thì thấy cách biệt nhau quá. Do
đó sinh hoạt và tính chất của họ cũng không
giống như đại địa chủ.
Nhận xét thứ ba, mà là
nhận xét chủ yếu: giai cấp địa chủ VN
từ sau khi Pháp thuộc, là giai cấp của một
xứ thuộc địa, cho nên thái độ chính trị
của họ cũng có khác giai cấp địa chủ
các nước không phải thuộc địa. Tôi
đồng ý với ý kiến của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng về công tác CCRĐ
trước Quốc hội khóa thứ 6 vừa qua, trong
đó có câu: “Giai cấp
địa chủ, đứng về giai cấp mà nói, là
phản động cần phải đánh đổ.
Nhưng đi sâu vào thái độ chính trị của
từng cá nhân địa chủ thì có một số người
tuy về kinh tế bóc lột theo lối phong kiến,
nhưng về chính trị thì có tinh thần dân tộc
đến một trình độ nhất định”.
Tôi thấy cần phải đi sâu như thế thì
mới thấy được những chỗ khác nhau
giữa giai cấp địa chủ Việt Nam với
giai cấp địa chủ nước khác không phải
thuộc địa và mới thấy được
một trong những đặc điểm của cách
mạng VN.
Như vậy, những quan
điểm từ trước cho rằng toàn bộ giai
cấp phong kiến địa chủ đã đầu hàng
địch, đã câu kết với địch, phủ
nhận đặc điểm của xã hội Việt
Nam, phủ nhận sự thật lịch sử, tôi
thấy cần phải xét lại. Không cần phải
nhắc lại những sai lầm trong Cải cách Ruộng
đất vừa qua không phân biệt địa chủ kháng
chiến với địa chủ khác, coi tất cả
địa chủ là địch là máy móc. Dù sao, trong khi
đi sâu vào việc kiểm điểm thái độ chính
trị của tầng lớp phong kiến địa
chủ qua các thời kì, chúng ta không nên đi đến
chỗ phủ nhận đối tượng của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là đế
quốc và phong kiến địa chủ. Dứt khoát là
chế độ chiếm hữu ruộng đất
của giai cấp phong kiến, bóc lột phong kiến cũng
như giai cấp phong kiến địa chủ phải
hoàn toàn thủ tiêu. Chúng ta chỉ cần nhắc lại là:
vì xã hội nước ta trước đây là xã hội
thuộc địa và nửa phong kiến nên nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng là chống
đế quốc chủ nghĩa và quét sạch tàn tích phong
kiến; nhưng đừng quên giữa hai mâu thuẫn
chủ yếu, mâu thuẫn dân tộc với chủ
nghĩa đế quốc xâm lược và mâu thuẫn
giữa nông dân với địa chủ phong kiến thì mâu
thuẫn dân tộc ta với đế quốc vẫn là
chủ yếu nhất. Có nắm vững được
quan điểm này thì đem thi hành ra chính sách mới không sai
lệch.
Hiện nay nhiệm vụ
phản phong tại miền Bắc về căn bản
đã hoàn thành, giai cấp phong kiến địa chủ
tại miền Bắc nước ta về căn bản
đã ra đời. Đề ra việc xét lại
"hồ sơ" của giai cấp phong kiến
địa chủ, tôi chú ý vào việc nghiên cứu
để mong dựng lại một sự thật
lịch sử, đồng thời mong cống hiến
một phần nào cho công tác sửa sai lúc này.
Hải Khách
8.3.1957
Nguồn: Tập san
Văn Sử Địa số 25, quý I -1957